Thursday, December 19, 2013

Phi Cơ Phi Đòan 118 KQVN Mất tích / Núi Mẹ Bồng Con / Hòn Vọng Phu




THÔNG TIN DƯỚI ĐẬY TỪ CÔ MỸ HẠNH CHUYỂN TIẾP BAN LIÊN LẠC TÌM MỘ RỒI PHỔ BIẾN RỘNG RÃI TỪ CÁC ANH KHOA NGUYỄN - JIMMY VU.
TÔI PHẠM MINH MẪN PHI ĐOÀN 219 TRƯỚC TIÊN XIN CHÂN THÀNH CÁM ƠN ĐẾN QUÝ VỊ ĐÃ CHUYỂN THÔNG TIN NÀY LÊN GROUP KHÔNG QUÂN VÀ XIN THÔNG BÁO ĐẾN ANH VÕ Ý CÙNG CÁC ANH EM PHI ĐOÀN 118, ĐƯỢC RÕ:
 TỐI HÔM QUA MINH MẪN CÙNG CHÁU VĂN NGỌC CHÂU CON TRAI TRƯỞNG ANH VĂN NGỌC CỦA ĐÃ ĐẾN GẶP ANH HỒNG TẠI QUẬN TÂN BÌNH SAIGON ĐƯỢC BIẾT:
ANH HỒNG LÀ MỘT QUÂN Y CỦA BỘ ĐỘI ANH HỒNG CÓ LÀM VIỆC CHUNG VỚI HAI ANH QUÂN VÀ NAM LÀ NHỮNG CỰU QUÂN NHÂN QLVNCH, CÁC ANH CƯ NGỤ GẦN NÚI MẸ BỒNG CON, SINH KẾ BẰNG NGHỀ VÔ RỪNG TÌM ĐÁ THẠCH ANH VÀ  ĐÃ TÌM ĐƯỢC XÁC MÁY BAY CỦA PHI ĐOÀN 118 CÓ SỐ ĐUÔI MÁY BAY 6722527 (CÁC ANH NÀY CÒN GIỮ PHẦN MÁY BAY CÓ GHI RÕ SỐ ĐUÔI NÀY) VÀ CÁC ANH TÌM ĐƯỢC HÀI CỐT CỦA 4 NGƯỜI (ĐÚNG RA LÀ 5 NGƯỜI  MỘT NGƯỜI KHÔNG TÌM THẤY) GỒM TR/U VĂN NGỌC CỦA QUAN SÁT VIÊN CÓ THẺ BÀI - TH/U VO VĂN ĐẠT PILOT CÒN CĂN CƯỚC, MỘT PHỤ NỮ VÀ MỘT NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÓ GIẤY TỜ NHƯNG KHÔNG CÒN ĐỌC ĐƯỢC NÊN KHÔNG RÕ DANH TÁNH, HỌ ĐÃ TÌM ĐƯỢC MỘT SỐ HIỆN VẬT NHƯ NÓN BAY MŨ NỈ KQ CÓ GẮN LON TRUNG ÚY ĐỒNG HỒ ĐEO TAY BỊ CHÁY HỎNG, GIÂY CHUYỀN VÀNG BỊ ĐỨT TỪNG ĐOẠN VÀ NHẪN HỘT SOÀN TẤM. CẢ 4 HÀI CỐT ĐƯỢC CHÔN CHUNG GẦN ĐÓ VÀ XẾP NHIỀU LỚP ĐÁ LÊN TRÊN.
ANH NAM LÀ NGƯỜI GOM TẤT CẢ HÀI CỐT CHÔN CHUNG HIỆN NAY ANH NAM ĐANG CÒN TRÊN NÚI KHÔNG LIÊN LẠC ĐƯỢC VÌ ĐT MẤT SÓNG...
CÁC ANH NÀY LÀ CỰU QUÂN NHÂN CÓ TẤM LÒNG VÌ ĐỒNG ĐỘI, CÁC ANH CÓ CUỘC SỐNG LAM LŨ, PHẢI VẤT VẢ NHIỀU NGÀY HAY CẢ THÁNG TRONG RỪNG ĐỂ TÌM ĐÁ THẠCH ANH...
CÁC ANH SẼ CHUYỂN NHỮNG DI VẬT CỦA HÀI CỐT  CHO CHÚNG TÔI XEM MỘT NGÀY GẦN ĐÂY, NHƯNG HIỆN NAY KHÔNG THỂ ĐẾN ĐƯỢC NƠI CHÔN HÀI CỐT VÌ TỪ NÚI MẸ BỒNG CON ĐI VÔ RỪNG BA NGÀY ĐƯỜNG, VÀ LÚC NÀY LÀ MÙA MƯA LẠNH BUỐT TRÊN ĐỘ CAO HƠN 2 NGÀN MÉT SO VỚI MÂT BIỂN, PHẢI ĐẾN MÙA HÈ MỚI ĐI ĐƯỢC.
  MINH MẪN VÀ CON TRAI ANH VĂN NGỌC CỦA TRƯỚC ĐÂY 10 NĂM ĐÃ TIN VÀO MỘT LÃO NGOẠI CẢM LỪA BỊP ĐI VÔ RỪNG TRONG VÙNG SÔNG BA SUỐT MẤY NGÀY TRỜI KHÔNG TÌM ĐƯỢC GÌ MÀ CHÁU CHÂU LẠI TỐN QUÁ NHIỀU TIỀN CHO GÃ NGOẠI CẢM LỪA BỊP ĐÓ.
NAY MINH MẪN KÍNH NHỜ ANH VÕ Ý VÀ CÁC ANH CÓ THÔNG TIN VỀ THÂN NHÂN BÀ ĐẠI TÁ LÊ QUANG BÌNH CÙNG TH/U VO VĂN ĐẠT...THÔNG BÁO ĐẾN THÂN NHÂN CỦA HỌ HỢP SỨC ĐI NHẬN HÀI CỐT VÀ CÙNG CHỊU CHI PHÍ CHUNG...VÀ CŨNG MONG CÁC ÂN NHÂN HẢO TÂM GIÚP CHO CHÁU CHÂU CÓ PHƯƠNG TIỆN ĐƯA HÀI CỐT CHA MÌNH VỀ VỚI GIA ĐÌNH VÌ HIỆN NAY CHÁU VĂN NGỌC CHÂU RẤT KHO KHĂN.
KÍNH THÔNG BÁO ĐẾN QUÝ VỊ
MINH MẪN 219



                                 Lien Lac Tim Mo lienlactimmo@att.net
Sent: Wednesday, December 18, 2013 8:34 PM
Subject: Thong Bao Hài cốt Tử Sĩ VNCH tìm thân nhân 
Kính Thưa Quý Cô Chú
 Văn Phòng Liên Lạc Tìm Mộ có nhận được thông tin như sau:
Máy bay số 6722527 Trung Tâm Huấn Luyện KQ Nha Trang .
1-) Người lái Trung úy Van Ngọc Của số quân 64/601584L nhóm máuB .
 2-) người ngồi bên võ văn Đạt 
 3-)và một người nam
 4-) có thêm một phụ nữ.  
Bị rớt ở núi .ai là thân nhân liên lạc với anh Nam 0979104425 
hoặc Hồng đt 0905190519 đ nhặn hài cốt 4 người trên
Chúng Cháu có liên lạc với Anh Hồng người phát hiện ra 4 hài cốt trên chuyến bay 6722527
 và được biết thêm rất nhiều chị tiết ......
Kinh mong Quý cơ Quan truyền thông .
Quý Cô Chú Anh Chị trên các diễn đàn 
 Quý Cô Chú trong Hội Không Quân VNCH.
Giúp chuyển tin nầy đến thân nhân những người quá cố 
            kính
Văn Phòng Liên Lạc Tìm Mộ
Ðiện thoại: 559-273-1782
E-mail: lienlactimmo@att.net


 Núi Mẹ Bồng Con (Hòn Vọng Phu)
Ảnh: Trần Quỳ 

Núi Mẹ Bồng Con là tên dân gian, còn tên chữ là hòn Vọng Phu có 2 đỉnh, độ cao 2.021 và 1762 mét so với mực nước biển, nằm trên ranh giới giữa các tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên và Đắc Lắc, phía trong hòn Nhọn của xã Hòa Mỹ Tây. Đây là nơi phát nguyên các con sông Ea Krông Rou chảy vào hướng nam, và sông Ea Mai, Ea Nga, Ea Grô chảy ra hướng Bắc. Mặc dù các ngọn núi này không nằm hẳn trong huyện Tây Hoà, nhưng huyền thoại về núi Mẹ Bồng Con được lưu truyền nơi đây khá phổ biến. Khu vực này có nhiều loại lâm sản quý như: gõ, kiền kiền, dầu, huỳnh đàn, chai dầu, hột ư đặc biệt là trầm kỳ từ cây dó bầu lưu niên.
Hàng năm sau mùa mưa bão, người dân ở hữu ngạn sông Ba thường tổ chức từng toán nhỏ luồn sâu vào rừng để tìm trầm kỳ từ tháng này sang tháng khác, cho đến khi nào tìm thấy, lấy được trầm. Trong dân gian có tên gọi riêng là đi điệu. Hành trình tìm trầm nhiều gian khổ, hiểm nguy, nhiều khi đi lạc, hết lương thực. Lúc đó, người đi điệu phải ngậm củ Ngải-một loại riềng dại, có vị thơm dịu làm cho ruột đỡ cồn cào. Từ đó mới có cụm từ ngậm ngải tìm trầm để chỉ những toán đi tìm trầm. Trong suốt quá trình đi điệu, dân tìm trầm sử dụng các từ khác thay thế cho các từ thông dụng, để chỉ tên gọi trong sinh hoạt, động tác, lễ nghi…
Đi điệu là một nghề vất vả, sống-chết, giàu-nghèo chỉ cách nhau trong gang tấc. Có lẽ xuất phát từ đó mà những người thân dưới đồng bằng mỗi khi nhìn lên đỉnh Vọng Phu thường liên tưởng đến chồng con, nên trong dân gian mới có truyền thuyết về người mẹ bồng con lên núi cao tìm chồng mãi cho tới khi chết hóa đá. Chuyện kể như sau: 
Có đôi trai gái nọ thương yêu nhau, cưới nhau nhưng nhà rất nghèo. Chồng đi làm thuê, vợ ở mướn cho nhà giàu, cả hai đầu tắt mặt tối nhưng không đủ ăn, thậm chí căn nhà để che mưa nắng cũng chỉ là căn lều tranh rách nát. Chẳng bao lâu sau, đôi vợ chồng sinh được mụn con trai. Tuy đời sống tinh thần rất hạnh phúc, nhưng vật chất thì thiếu thốn trăm bề. Cái đói, cái rách luôn luôn đứng trước mái tranh nghèo.
Một đêm kia người chồng thầm thì vào tai vợ rằng: Mình không thể sống mãi trong cảnh cùng túng này được. Tôi quyết chí theo anh em ngậm ngải tìm trầm, may ra đôi ta có khá hơn chăng? Sau một hồi phân vân, thoái thác người vợ cũng bằng lòng để chồng ra đi.
Một tháng, hai tháng rồi một năm sau… bóng người chồng vẫn biệt vô âm tín. Vì nhớ thương chồng. Người vợ bỏ nhà bồng con lên núi cao đứng trông ngóng về hướng chồng ra đi. Ngày một ngày hai nàng gọi mãi tên chồng nhưng chỉ có rừng núi vọng lại tiếng gào tuyệt vọng của nàng. Gào mãi cho đến khi nàng và đứa con kiệt sức chết đứng trên mỏm núi, sau hóa thành khối đá, người đời đặt tên là núi Mẹ Bồng Con để chỉ cho tấm lòng thủy chung của người vợ. 
Dị bản 1:
Theo thi sĩ  Quách Tấn thì núi Vọng Phu có tích từ người ngậm ngải tìm trầm:
“Có một người tu tiên gần đắc đạo thì một ngày kia quay về chốn cũ thăm bạn. Hai người lâu ngày gặp nhau mừng rỡ, chủ nhân bèn hối vợ con bày tiệc thết đãi. Trong bữa tiệc tao phùng, người bạn thật thà kể chuyện tu tiên, và ông đã luyện được ngải, ngậm vào có thể sống cả năm trời mà không cần ăn uống. Chủ nhân sanh lòng tham, phục rượu cho bạn uống đến say, bèn lấy cắp gói ngải và bỏ trốn đi tầm sư học đạo để sau này có thể hưởng cảnh thần tiên. Khi tỉnh giấc, vị đạo sĩ kia sờ vào tay nải không tìm thấy gói ngải, hỏi vợ chủ nhân mới hay người bạn đã bỏ nhà đi đã hai ngày nay. Vị đạo sĩ vội vàng đuổi theo, trèo đèo lội suối theo lối cũ mà đi. Chẳng may ông ngã xuống hố, chết hóa thành đá.
Còn chủ nhân cứ ngậm ngải mà đi, đi mãi nhưng không tìm thấy gì, lâu ngày thân thể mọc dày lông và hóa thành cọp. Đến khi nhớ cảnh cũ, vợ con, bèn quay về, nhưng mọi thứ đã thay đổi cả.
Trong khi đó người vợ mỏi mòn chờ chồng không thấy trở về, liền bồng con lên núi cao, và chết trên đỉnh núi, xác hai mẹ con hóa thành đá ngay trên đỉnh, nên sau này dân gian đặt tên là núi Vọng Phu hay Mẹ Bồng Con”.

Tuesday, December 17, 2013

Trung úy BĐQ Trần kỳ Nam SVSQ khóa 9/68 Thủ Đức


Trần ngọc Thanh, em gái của SVSQ khóa 9/68, grandmottet.tran@gmail.com

Trung úy BĐQ Trần kỳ Nam  

SVSQ khóa 9/68 Thủ Đức



Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Tiểu đoàn 67 Liên đoàn 25 BĐQ. Mất tích trước tháng 3, 4 năm 1975 trong trận rút Quân ở Pleiku hay Plei-me?( không rõ). các anh nào có biết bối cảnh, thời điểm và nơi cuối cùng của anh tôi trước khi hy sinh, xin liên lạc với địa chỉ trên. 

Chúng tôi thành khẩn xin quí vị phổ biến thông tin này cho các bạn hữu, chiến hữu, bạn tù ...,
hỵ vong trong số người quen của quí ông, quí bà, may ra có ai biết được bối cảnh chiến trường và nơi cuối cùng của anh tôi trước khi tử trận, hay tử tù, để chúng tôi trả lời một câu hỏi của mẹ một cách quả quyết lý do chính xác sự mất tích của anh Nam, vì chúng tôi rất đau lòng khi có một người mẹ, đang đau nặng gần ngày về cõi phật, suốt gần 40 năm trường với 14 ngàn ngày và đêm, vẫn một mực chờ tin con, như chờ một phép lạ.
Cám ơn quí ông, quí bà, chú, bác, anh, chị, đã hiểu nỗi thống khổ của những người mất người thân và thương tình giúp đỡ... 


Tin tức về cái chết của Trung Úy Biệt Động Quân Trần Kỳ Nam.
Hôm nay ngày Giáng Sinh 25 tháng 12 năm 2013
Tôi nhận được điện thoại của Anh Lắm, một quân nhân của Trinh Sát 2 Nhảy Dù cho biết như sau:
Trung Úy Nam cùng 7 quân nhân Biệt Động Quân triệt thoái trên Quốc Lộ 25 khoãng giữa Phú Bổn và Phú Túc khoãng ngày 20 tháng 3 năm 1975, anh Lắm là Toán Phó Viễn Thám cùng 4 nhân viên Toán / Đây là những Toán Viễn Thám Hậu cứ tại Khánh Dương và lấy tin tức cho các đơn vị Nhảy Dù Khánh Dương và Toán bị bỏ rơi, không máy bay đón Toán và các anh triệt xuất bằng đường bộ tìm cách về hướng Tuy Hòa. Trong lúc di chuyển và gặp toán 7 người của anh Nam và tất cả tháp tùng đi chung, ngay sau di chuyễn khoãng một thời gian ngắn toán chạm địch và tất cả đều bị bắt làm tù binh. Riêng Trung Úy Nam bị thương nặng nơi bọng đái và trút hơi thở cuối cùng tại khu vực Quốc Lộ 25 giữa Phú Bổn và Phú Túc do Cộng Quân chiếm đóng và chính anh Lắm là người vuốt mắt lần cuối và tìm cách thu thập một số tin tức về gia đình và người thân anh Nam tại Sàigon.
Sau 30 tháng 4 năm 1975 anh Lắm tìm cách về Sài Gòn và đến khu vực nhà anh Nam trong một khu cư xá ở Thị Nghè gần sở Thú để tìm Má và em trai anh Nam, nhưng một số Bộ đội Việt Cộng chiếm đóng và kiểm soát cư xá cho biết những người trong địa chỉ này đã không còn ở đây nữa.
Khi đến Hoa Kỳ anh Lắm có thấy mục nhắn tin trên Báo KBC và có liên lạc với người phụ nữ có lẽ là Vợ anh Nam nay đã có gia đình khác ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ và anh Lắm cũng đã cung cấp tất cả thông tin về anh Nam như chúng tôi đã trình bày phía trên.

Tin tức trên blog này xin quý vị phổ biến rộng rãi, hy vọng có các Quân Nhân QLVNCH hay các Bộ Đội Cộng Sản Bắc Việt tại khu vực Trung Úy Nam Tữ Trận có thêm tin tức về thi hài của Cố Trung Úy Trần Đình Nam Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Tiểu đoàn 67 Liên đoàn 25 BĐQ.

Xin liên lạc e-mail về: NhaKyThuat@Yahoo.com
Xin thành thật cám ơn.

Xin tiếp tục đọc bài viết có liên quan về cuộc triệt thoái Cao Nguyên vào tháng 3 năm 1975 và đưa đến toàn bộ sự sập đổ của Miên Nam.
Xin một lần được tri ân các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa và đồng bào đã Hy Sinh xương máu bảo vệ Miền Nam Tự Do trong 21 năm.

Trân Trọng
PH/NKT



Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cuộc Hành Quân Phá Sản

di_tan_mien_trung_1975sized

Một ngày trước khi tướng Phú tuyên bố Ban Mê Thuột thất thủ, hôm 12-3 -1975 Hạ Viện Mỹ biểu quyết cắt 300 triệu Mỹ kim quân viện bổ túc cho Việt Nam Cộng Hoà do Tổng Thống Ford đệ trình Quốc Hội, Đại sữ Mỹ Martin cũng thông báo cho Tổng thống Thiệu biết quân viện năm tới từ tháng 6 sẽ không được chuẩn chi, như thế Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn đủ đạn dược để đánh trận trong vòng 3, hoặc 4 tháng. Tại Pleiku liên đoàn 4 Biệt động quân chưa thể giải tỏa được quốc lộ 19, sư đoàn 22 tại gần Qui nhơn chiến đấu dữ dội với sư đoàn 3 Sao vàng của Việt Cộng, phi trường Cù Hanh bị pháo kích, 3 phi cơ A-37 bị phá hủy. Sư đoàn 10 sau khi chiếm Ban Mê Thuột tiến về tuyến Phước An, tại đây quân ta chỉ còn 700 người và 4 khẩu 105 ly. Hôm 11-3 Tổng thống Thiệu họp Hội đồng Tướng lãnh gồm các Tướng Trần thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang để trình bầy kế hoạch mà ông gọi là “Tái phối trí lực lượng”, với tình hình vũ khí đạn dược như hiện nay ta không thể giữ cả 4 quân khu, mà chỉ đủ lực lượng giữ Quân khu 3, Quân khu 4 và một phần duyên hải Vùng 2, Quân khu 1 chỉ giữ Huế và Đà Nẵng, sẽ rút bỏ Cao nguyên về giữ đồng bằng, bỏ những vùng xương xẩu để về giữ những vùng mầu mỡ. Hội đồng Tướng lãnh đồng ý, không ai phản đối. Đã choáng váng vì bị mất Ban Mê Thuột, nay lại tá hoả tam tinh vì Đồng minh phản bội trắng trợn, Tướng Thiệu mất tinh thần, đưa ra kế hoạch táo bạo liều lĩnh vô cùng tai hại trong một phiên họp tại Cam ranh ngày 14-3. Trong phiên này có Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang, phụ tá an ninh và Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân khu 2. Sau phiên họp Tướng Phú kể lại cho Phạm Huấn, người ký giả chiến trường này đã ghi lại trong Cuộc Trịêt Thoái Cao Nguyên 1975.

bmt 

 Ông Thiệu cho biết Quốc Hội Mỹ cắt giảm quân viện khiến ta thiếu thốn đạn dược tiếp liệu, Mỹ hủy bỏ cam kết yểm trợ bằng không lực khi Cộng Sản vi phạm Hiệp định Paris, lãnh thổ phòng thủ quá rộng lớn, ta thiếu thốn đạn dược, tiếp liệu, lực lượng địch năm nay quá mạnh… Ông cho biết Tướng Phú phải đem hết chủ lực quân, chiến xa, pháo binh của quân đoàn về phòng thủ duyên hải, nghĩa là rút bỏ Pleiku, Kontum.. Nghe thế tướng Phú bèn xin cho toàn bộ quân đoàn ở lại chiến đấu vì ông đã thoáng nhìn thấy sự sụp đổ miền Nam sẽ diễn ra do kế hoạch “tái phối trí” của Thiệu. “- Thưa Tổng thống, cho tôi được “tử thủ” Pleiku, giữ cao nguyên. Tướng Thiệu cười nhạt: – Tử thủ? Với quân số, đạn dược hiện có, liệu anh chiến đấu được bao nhiêu ngày với Cộng Sản? – Thưa Tổng thống từ 40 đến 60 ngày! – Rồi sao nữa? Tướng Phú khựng lại, đưa mắt nhìn tướng Viên cầu cứu, nhưng tướng Viên quay đi chỗ khác. Tướng Phú đáp: – Tôi sẽ chiến đấu đến cùng, cho đến khi không còn được tiếp tế súng đạn, lương thực nữa!

89-image_large 

 . . . … Tướng Phú vẫn liều lĩnh nói với giọng hơi lớn: – Thưa Tổng thống, thưa quí vị tướng lãnh, Nếu rút khỏi cao nguyên năm nay, thì một cuộc tấn công khác của Cộng Sản, có thể vào năm tới, sẽ mất duyên hải và mất nước. Tôi và các chiến sĩ của tôi có chết ở Cao nguyên bây giờ cũng không khác gì chết ở Sài Gòn trong năm tới!” (Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, trang 85) Thiệu bác bỏ ý kiến Phú, ông nói đây là kế hoạch chung của Hội đồng tướng lãnh mà ông đã bàn thảo. -Tôi ra lệnh cho anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay …về phòng thủ Duyên hải, và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. . . . . – Lệnh này, từ cấp tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng trở xuống không được biết. – Thưa Tổng thống… – Có nghĩa là các lực lượng Địa phương quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chánh 3 tỉnh.Pleiku, Kontum , Phú Bổn vẫn tiếp tục làm việc cùng với tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ. . . . – Quyết định mang tất cả chủ lực quân chiến xa, pháo binh, máy bay của Quân đoàn II khỏi Pleiku, Kontum, tôi đã thảo luận với các tướng lãnh. Đây cũng là một quyết định chung của Hội đồng Tướng lãnh, như quyết định hôm qua cho Tướng Trưởng ngoài quân đoàn I. Phòng họp im phăng phắc, không có một phản ứng, chống đối nào. Bỗng tướng Phú hỏi ôngThiệu một câu gần như lạc đề: – Thưa Tổng Thống, nếu chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binh rút đi làm sao Địa phương quân chống đỡ nổi khi Cộng Sản đánh? Hơn 100 ngàn dân 2 tỉnh Pleiku, Kontum và gia đình anh em binh sĩ? – Thì cho thằng Cộng Sản số dân đó! Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được vùng dân cư đông đúc, mầu mỡ… hơn là bị “kẹt” quá nhiều quân trên Vùng Cao nguyên…” (CTTCN1975, trang 85, 86) Kế hoạch đã được coi như hợp thức hoá và lệnh triệt thoái được ban hành, các tướng lãnh không ai phản đối. Kế đó họ bàn việc lựa chọn đường rút quân, tướng Viên cho biết đường Quốc lộ 21 không thể xử dụng được vì đường 14 giữa Pleiku-Ban Mê Thuột đã bị địch cắt, Bắc Việt hiện có 3, 4 sư đoàn chính qui tại chiến trường Ban Mê Thuột, không thể từ đó xử dụng đường 21 về Nha Trang. Đường 19 nối Pleiku- Qui Nhơn cũng khó thành công vì đèo An Khê đã bị cắt ở hai phía Đông , Tây, Việt Cộng đóng chốt nhiều nơi, trước đây Pháp đã từng bị Việt Minh phục đánh kích tan tác trên đèo này. Ngoài đường số 7B không còn đường nào khác, Tướng Phú đề nghị chọn đường số 7B, kế hoạch được chấp thuận. Thiệu nói kế hoạch rút quân để bảo toàn lực lượng hầu tái chiếm Ban Mê Thuột, Thiệu dặn Phú phải giữ bí mật, không được cho các Tỉnh trưởng biết, chỉ có chủ lực của quân đoàn rút, Địa phương sẽ phải ở lại chiến đấu, như vậy về cơ bản kế hoạch chỉ là sự lừa dối lẫn nhau, một kế hoạch bất nhân, tàn nhẫn. Chiều 14-3 Bộ Tư lệnh quân đoàn triệu tập các sĩ quan cao cấp để thông báo lệnh rút bỏ Cao nguyên tuy nhiên không có giấy tờ lệnh hành quân cấp quân đoàn, cuộc hành quân tổ chức vội vã không được chặt chẽ. Tướng Phú lệnh cho Lữ đoàn 2 Kỵ binh rút từ đèo Nang Yang về tăng phái cho Liên đoàn 23 Biệt động quân và Công binh để sửa chữa cầu cống, giữ an ninh trên lộ trình đường số 7B. Dưới thời ông Diệm Cheo Reo được tách ra khỏi Pleiku thành lập tỉnh Phú Bổn, dân số 95 ngàn người, 70% là đồng bào Thượng. Tỉnh Lộ 7B từ ngã ba Mỹ Thạnh tới Tuy Hoà trước đây là đường trải đá, có 3 cầu chính: Phú Thiện 50m, Le Bac 600m, Cà Lúi 40m. Đoạn cuối tỉnh lộ 7B trong địa phận Tuy Hoà, quận Củng Sơn không an toàn cho sự lưu thông. Ngày 16-3 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku, Tướng Phú và Bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, bỏ lại Chuẩn tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc đám di tản. Đoàn di tản gồm có 4 đoàn , mỗi đoàn 250 xe, theo Tướng Hoàng Lạc (Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới) tổng cộng có 1200 xe cộ, theo Phạm Huấn có tất cả 4,000 quân xa đủ loại, mỗi ngày một đoàn xe. Ngày 16-3 đoàn xe lên đường êm xuôi vì có yếu tố bất ngờ, ngày thứ hai 17-3 dân chúng chạy ùa theo khiến cuộc di tản trở nên hỗn loạn phức tạp. Tướng Phú ra lệnh ngưng lui binh tại Phú Bổn và lập phòng tuyến tại Hậu Bổn. Các biến cố dồn dập sau đó vượt khả năng của giới thẩm quyền, quân nhân tại Phú bổn bị ảnh hưởng giây chuyền cũng hốt hoảng gia nhập đoàn chạy loạn. Ngày 18-3 Liên đoàn 7 Biệt động quân đang cùng thiết giáp đánh chốt Việt Cộng xui xẻo bị không quân oanh tạc lầm, gây nhiều thương vong cho phía ta. Hỗn loạn xẩy ra, bọn lưu manh côn đồ đốt chợ, Việt Cộng pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản, tối đếnViệt Cộng pháo kích thị xã khiến người chết như rạ, các chiến xa M-48, M-41 bị phá hủy 70%, lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú Bổn. Sau trận pháo kích dữ dội của Cộng quân, xe tăng M-48, M-41, đại bác bị hư hại hết không thể xử dụng được, 40 chiến xa và 8 khẩu 175 ly bị phá hủy. Ngày 16-3 -1975 Sư đoàn 320 Việt Cộng được lệnh hành quân cấp tốc đuổi theo đánh phá đoàn xe triệt thoái, đến 18-3 lực lượng lớn của Việt Cộng tiến vào Phú Bổn, đánh phá dữ dội đám quân triệt thoái đang ùn tại đây rồi tiếp tục đánh xuống Củng Sơn. Chúng gây kinh hoàng cho đoàn quân triệt thoái, các liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh của ta bị thiệt hại nặng. Địch xử dụng nhiều đại bác, xe tăng lấy được của ta để truy kích đánh phá đoàn quân triệt thoái, một lỗi lầm tai hại của cuộc lui binh mà không ai ngờ tới. Nhận được báo cáo tình hình nguy khốn Tướng Phú ra lênh bỏ Hậu Bổn để về Tuy Hoà. Cuộc chạm súng tại Hậu Bổn kéo dài tới sáng hôm sau, đoàn quân đi được 20km thì Cộng Sản đã tràn vào Phú Túc, Liên đoàn 7 Biệt động quân chiếm lại quận Phú Túc. Khi ra khỏi Phú Túc lính tranh nhau vượt lên trước, người ta bắn nhau để tranh lên trước, súng nổ khắp nơi giành đường đi, hỗn loạn ngày càng trầm trọng do các binh sĩ rã ngũ, đào binh tòng phạm cướp của giết người. Binh lính chửi rủa Thiệu suốt dọc đường vì cuộc lui binh thê thảm này, dân chết lính chết, thật là một địa ngục, một hành lang máu. Công binh lập 2 cầu nổi, một tại Le Bac, một tại Đồng Cam, đoàn xe đến được sông Ba thì thì bị cát lún, mất ba ngày để trực thăng chở vỉ sắt lót đường, dù gặp khó khăn đoàn xe đầu tiên về tới Tuy Hoà, chỉ có một chiếc xe bị kẹt giữa cầu nổi khiến cả đoàn quân tắc nghẽn. Cộng quân từ Thuần Mẫn đổ xuống tổ chức các chốt chặn đường, một tiểu đoàn Địa phương quân và một tiểu đoàn Biệt động quân được giao nhổ chốt. Ngày 22-3 hai tiểu đoàn Biệt Động quân ở đoạn hậu đánh tan trung đoàn Bắc Việt, địch bị thiệt hại nặng phải rút lui. Việt Cộng đưa thêm các lực lượng đã tham chiến tại Ban Mê thuột với chiến xa yểm trợ theo tỉnh lộ 287 đổ xuống đường liên tỉnh lộ 7B. Tướng Cẩm báo cáo Tướng Phú, Phú ra lệnh tan hàng, Cẩm và Bộ tham mưu bay trực thăng về Tuy Hoà, những người còn lại chạy về hướng đông . Phía tây xe tăng Việt Cộng đang tiến tới, hướng bắc là Pleiku, hướng nam Việt Cộng đang đóng chốt, ai len lỏi theo sông Ba thì về được Tuy Hoà. Ngày 26-3 tiểu đoàn 34 Biệt động quân thanh toán các chốt sau cùng tại xã Mỹ Thạnh Tòng, những gì còn lại đã tới được Tuy Hoà, trong số 1,200 xe cộ chỉ có 300 mở đường máu tới được Tuy Hoà. Lui binh trên tỉnh lộ 7B được coi như một cuộc thảm bại lớn nhất trong chiến tranh tại miền Nam Nước Việt từ trước đến nay.

dlkh3 

Phạm Huấn gọi đó là hành lang máu, con đường máu và nước mắt dài 300 km trong 9 ngày đêm, đó cũng là một cuộc hành quân phá sản. Hậu quả là tổn thất của cuộc lui binh thật khủng khiếp, khoảng 60 ngàn chủ lực quân khi tới Tuy Hoà chỉ còn khoảng một phần ba 20 ngàn người, 5 liên đoàn Biệt động quân khoảng 7,000 chỉ còn 900 người, Lữ đoàn 2 thiết kỵ với hơn 100 xe tăng thiết giáp chỉ còn lại 13 cái M-113. Ông Cao Viên cho biết “Ít nhất 75% khả năng tác chiến của quân đoàn II bao gồm sư đoàn 23 bộ binh cũng như các lực lượng Biệt động quân, thiết giáp, pháo binh, công binh và truyền tin đã bị hủy hoại chỉ trong vòng có mười ngày. Chiến dịch đánh chiếm lại Ban Mê Thuột không thể thực hiện được, đơn giản chỉ vì Quân đoàn 2 không còn lực lượng tác chiến nào cả. Quân Cộng Sản đã chiếm được Kontum, Pleiku không cần phải chiến đấu. Khuyến khích bởi chiến thắng với tầm mức không ngờ, các sư đoàn F10, 316 và 320 CSBV quyết định đánh tới. Ngay lúc bấy giờ, địch quân biết rằng lực lượng mà Quân đoàn II xử dụng để ngăn chận bước tiến quân của họ về hướng bờ biển chỉ còn là Lữ đoàn 3 Dù tại Khánh Dương.” (Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, trang 738) Bắc Việt cho biết đã tiêu diệt trên 14 ngàn chủ lưc quân nguỵ, chiếm được 5,760 khẩu súng các loại trong đó có 22 đại bác 155 ly, 9 khẩu 175 ly, 48 khẩu 105 ly, chiếm và phá hủy 2000 xe cộ các loại … Theo tài liệu Mỹ (The World Almanac Of The Viet Nam War.) và của Nguyễn Đức Phương, trong số 400 ngàn dân Cao nguyên chạy loạn chỉ có 100 ngàn tới được Tuy hòa. Theo Tướng Hoàng Lạc trong số 200 ngàn dân chạy loạn chỉ có 45 ngàn tới Tuy Hoà. Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay Cộng quân. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát khủng khiếp hơn thế. Theo tướng Hoàng Lạc kế hoạch không đầy đủ, kỷ luật hỗn tạp, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn làm cho quân đội mất tinh thần khiến ai cũng chỉ lo chạy tháo thân. Dân chúng nghe tin tức bi quan qua đài BBC đã ồ ạt chạy về phía Nam làm náo loạn cuộc triệt thoái khiến cho tinh thần binh sĩ xuống thấp. Tổng cộng 60 ngàn quân triệt thoái chỉ có 20 ngàn tới được Tuy Hoà, khoảng 200 ngàn dân chỉ có 45 ngàn tơi nơi yên lành, như vậy hằng 100 ngàn quân dân hoặc bị bắt, bị giết. Những người thương binh trong các bệnh viện cũng như bị thương trên đường chạy loạn chỉ có nước nằm chờ chết vì bác sĩ y tá không còn nữa, ai cũng chỉ lo chạy tháo thân, số người bị thương bị giết.. có thể lên tới hằng vạn hoặc nhiều hơn nữa. Tổng tham mưu trưởng nói: “Thất bại tự tạo của quân đoàn II là một giấc mơ hãi hùng trên cả hai phương diện tâm lý và chính trị cho dân chúng cũng như cho QLVNCH. Rối loạn, lo âu, sợ hãi, lên án, tội lỗi cũng như thất vọng bắt đầu đè nặng lên tâm trí mọi người” Nguyễn Đức Phương (CTVNTT, trang 738, 739). Những tin đồn cắt đất nhường cho Cộng Sản lan nhanh khiến người ta đổ sô nhau chạy về hướng Nam, Quân khu 1 cũng rơi vào tình huống tương tự. Trong khi ấy tại Sài Gòn phía đối lập tăng hoạt động bất tín nhiệm chính phủ Thiệu, quân đội cũng mất tin tưởng chỉ có phép lạ may ra cứu được miền Nam. Cuộc lui binh trên tỉnh lộ 7B đã đi vào vết xe đổ của trận Cao Bắc Lạng năm 1949 và cuộc di tản Quảng Trị cuối tháng 4-1972. Cuối tháng 9-1949, Đại Tá Charton triệt thoái 3 tiểu đoàn Pháp ra khỏi Cao bằng đến đầu tháng 10 bị Việt Minh chận đánh tan rã, Pháp mất 7,000 quân và nhiều đơn vị tinh nhuệ, 500 quân xa, trên 100 súng cối và 13 đại bác, 10 ngàn súng cá nhân và cộng đồng, đại liên trung liên, trận đánh đã rung động cả nước Pháp. Cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị phòng thủ Quảng Trị dưới sự chỉ huy của Tướng Vũ văn Giai chiến đấu trong tuyệt vọng, vùng trách niệm của sư đoàn 3 thu hẹp dần, Việt Cộng tấn công phía tây và nam Quảng Trị, cô lập lực lượng phòng thủ, binh sĩ ta ngày càng suy sụp tinh thần trước những đợt pháo của Bắc Việt. Trước hoàn cảnh thiếu thốn tiếp liệu trong khi địch tấn công dữ dội, Tướng Giai trình bầy kế hoạch triệt thoái về Nam sông Thạch Hãn với Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh vùng 1. Được Tư lệnh chấp thuận, ông cho lui binh tức thì ngày 1-5-1972 sư đoàn 3 và các lực lượng tăng phái như Thiết giáp, Biệt động quân, Thuỷ quân lục chiến.. tất cả khoảng 9 trung đoàn ồ ạt chạy về Nam qua Quốc lộ I. Việt Cộng chớp thời cơ pháo theo chết như rạ trên đại lộ kinh hoàng, Quốc lộ đầy các loại xe bốc cháy, hàng vạn người bỏ xác tại đây, Lữ đoàn thiết kỵ có hơn 1,000 người tử thương, sư đoàn 3 chết 2,700 người, mất 100 xe tăng, 140 đại bác … 

nhatrang1975 

Đại tá Phạm bá Hoa nói. “Những bài học chiến thuật trong trường Võ bị cũng như trường Đại học quân sự..đều thừa nhận rằng, trong các cuộc hành quân thì hành quân rút lui (hay triệt thoái, lui binh) là nhiều nguy hiểm hơn các cuộc hành quân khác, vì đơn vị đưa lưng về phía địch. Khi tấn công thì trước mặt là địch và sau lưng là hậu tuyến, còn trong rút lui thì trước mặt là hậu tuyến mà sau lưng trở thành tiến tuyến. Nguy hiểm là vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học lui binh là phải có một lực lượng hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía trước mặt (hậu tuyến), còn lực lượng lui binh thì tự bảo vệ phía sau lưng (tiền tuyến), ngoài ra phải được không quân quan sát và yểm trợ hoả lực nữa. Với cuộc hành quân giao tiếp chậm chạp từ Tuy Hoà lên, đoàn quân triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô cùng hỗn loạn vì bị quân Việt Cộng liên tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy Hoà thì tổn thất đến nỗi không còn khả năng thực hiện kế hoạch phản công chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa. Số dân thường bị chết dọc đường nhiều không kém số thương vong của quân đội. Chết vì súng đạn, chết vì xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa bãi, chết vì tranh nhau miếng ăn nước uống, chết vì cướp giật…” (Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7) Theo Đại tá Phạm bá Hoa, một điều trớ trêu là ta tưởng Việt cộng bao vây Pleiku nhưng thực ra khi quân ta rút đi ngày 16-3, 4 ngày sau, 20-3 chúng mới tiến vào tỉnh lỵ như thế chứng tỏ tình báo của ta quá yếu kém. Việt Cộng còn ở cách xa Pleiku rất nhiều nhưng ta đã quá sợ hãi tưởng chúng bao vây tấn công tới nơi. Sự thực các sư đoàn Việt cộng còn ở xa về phía nam và đông nam Pleiku, chúng lại ở gần đoàn quân triệt thoái nên ta đã bị địch pháo kích, đánh phá gây thiệt hại cho đoàn quân nặng nề chưa từng thấy trong 20 năm chiến tranh. Theo ông Cao Văn Viên, kế hoạch rút bỏ Quân khu 2 và 1 của Nguyễn văn Thiệu là do một mình ông ấy nghĩ ra, không hỏi ý kiến ai cả. Kế hoạch được gọi một cách bóng bẩy văn hoa “Tái phối trí lực lượng” nhưng thực ra chỉ là sự tháo chạy một cách hỗn độn vô tổ chức, không nghiên cứ lộ trình, vô kỷ luật… đánh lừa lẫn nhau. Ông Cao Văn Viên cho rằng đó là một kế hoạch đúng nhưng thực hiện quá trễ, đúng lý ra phải thực hiện từ 6 tháng trước. Chúng ta thấy dù kế hoạch đúng về quân sự nhưng cũng không thể chấp nhận được vì nó là một kế hoạch bất nhân, tàn nhẫn. Như chúng ta đã thấy Tướng Thiệu lệnh cho Tướng Phú khi rút Quân đoàn 2 phải dấu kín không được cho địa phương biết để lừa họ phải ở lại chiến đấu. Lệnh này đã gây tệ trạng cấp lớn bỏ quân, bỏ dân chạy trước khi cuộc tháo chạy bắt đầu diễn ra, kế hoạch thật là bất nhân khi rút đi bỏ rơi đồng bào ruột thịt của mình vào tay Cộng sản, chính chúng ta đã bỏ rơi lẫn nhau trong khi ta lại lớn tiếng chỉ trích người Mỹ bỏ rơi đồng minh. Hầu như tất cả giới quân nhân, chính khách, ký giả truyền tin… đều cho rằng kế hoạch tái phối trí, rút bỏ Quân khu 1 và 2 về bảo vệ Quân khu 3 và 4 của Tướng Thiệu là liều lĩnh, ẩu tả nó đã làm sụp đổ miền Nam nhanh chóng lại đẩy bao nhiêu quân, dân vào chỗ chết một cách oan uổng. Kế hoạch tỏ ra rất cẩu thả và không tưởng, cho dù đường tỉnh lộ 7B có rộng rãi thênh thang như xa lộ Sài Gòn Biên Hoà chăng nữa cũng không thể di tản hàng nghìn xe cộ, hằng mấy trăm nghìn quân dân chạy loạn tới nơi tới chốn được huống hồ đó chỉ là con đường đã bỏ hoang từ bao lâu nay, cầu cống hư hỏng, cũ kỹ chật hẹp. Tướng Thiệu đã quá độc đoán khi khăng khăng cho di tản cả hai Quân khu cùng một lúc bất chấp sự cầu khẩn của hai Tướng Tư lệnh xin ở lại chiến đấu đến cùng, sinh mạng của đất nước, của hàng nghìn vạn người được ông đem ra làm trò chơi mà không hề bàn với nội các, với quân dân các cấp. Nhưng nhiều người cũng cho rằng Tướng Thiệu chơi trò tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ sót ruột phải nhẩy vào. Địch không thể ngờ ta lại có thể sai lầm lớn lao về chiến lược đến thế, đối với chúng kế hoạch triệt thoái Cao nguyên của Thiệu là một tặng phẩm từ trên trời rơi xuống. “Nhưng bây giờ, cả một quân đoàn chủ lực của ngụy rút chạy hộc tốc, bỏ cả Tây nguyên – một địa bàn chiến lược rất quan trọng thì vì sao? Theo lệnh ai? Hai đòn sấm sét ta đánh ở Nam Tây nguyên đã làm rung động quân địch đến thế kia ư? Đúng là đòn đánh trúng huyệt, địch bắt đầu ngấm, chỉ sau có mấy ngày. Đúng là địch đã choáng váng và rối loạn về chiến lược. Lại một sai lầm nữa rất lớn về chiến lược của chúng. Lệnh rút quân đoàn 2 phải do ngụy quyền trung ương ở Sài Gòn phát ra, vậy thì vấn đề đã vượt quá phạm vi chiến dịch và lên tới tầm chiền lược. Lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh Đông Dương, trong phạm vi chiến dịch, một quân đoàn địch được trang bị hiện đại đã phải bỏ địa bàn chiến lược quan trọng rút chạy.Tình hình này sẽ dẫn đến nhiều sự kiện quan trọng khác, có thể dẫn đến việc ta kết thúc thắng lợi nhanh chóng cuộc chiến tranh” Văn Tiến Dũng (Đại Thắng Mùa Xuân trang 99) Tướng Thiệu đi từ sai lầm này tới sai lầm to lớn khác, kế hoạch tái phối trí lực lượng của ông đã khiến cho kẻ địch không phải giao chiến cũng chiếm được cả Kontum, Pleiku. Cho lệnh Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Cao nguyên, Tướng Thiệu đã mở một cuộc hành quân phá sản và dọn cỗ sẵn cho Việt Cộng xơi, chưa bao giờ Việt Cộng sung sướng thoải mái như tháng 3-1975, trong vòng một tuần lễ cả Cao nguyên rơi vào tay Cộng sản, tai hại hơn nữa nó kéo theo sự sụp đổ của hệ thống phòng thủ Quân đoàn 2. “Thế là rõ.Trận Buôn Ma Thuột hiểm và mạnh quá, tiếp đến trận đánh diệt quân viện sư đoàn 23 ở phía đông Buôn Ma Thuột nhanh và gọn quá làm cho địch hốt hoảng, rối loạn không những ở cấp sư đoàn, quân khu mà chính là động đến cơ quan đầu não của ngụy quyền Sài Gòn. Từ sai lầm về chiến thuật, chiến dịch, bị ta đánh đau quá, địch đi đến sai lầm về chiến lược; ngụy quyền Sài Gòn hốt hoảng ra lệnh rút chạy khỏi Tây nguyên đưa quân về đồng bằng hòng giữ lực lượng và giữ đất. Nhưng nào có đưa được lực lượng về đâu, có giữ được đất nữa đâu! ta đã diệt chúng trên đường rút chạy. Mà đã sai lầm về chiến lược rồi thì thất bại trong chiến tranh là điều chắc chắn, không sớm thì muộn” Văn Tiến Dũng (ĐTMX trang 105) Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương cả một quân đoàn phải rút chạy, trong hàng ngũ Tướng lãnh điều khiển bộ máy chiến tranh chưa có ai ẩu tả và bạt mạng cho bằng Tướng Thiệu. Thất bại trên đường số 7B do thất thủ Ban Mê Thuột, nếu không mất Ban Mê Thuột chắc không ai nghĩ phải bỏ Kontum Pleiku, từ sai lầm chiến thuật đi đến sai lầm chiến lược. Các cuộc hành quân không được Bộ Tổng tham mưu điều khiển giám sát, Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho các Tư lệnh quân đoàn, Bộ Tổng tham mưu không được ra bất cứ lệnh nào cho các đơn vị, chính vì Thiệu dành độc quyền lãnh đạo nên mới đưa tới sụp đổ hệ thống phòng thủ nhanh như vậy. Lệnh triệt thoái là một lệnh bí mật, chỉ một số ít sĩ quan cao cấp của Quân đoàn được truyền đạt, sự thực đó chỉ là một sự dối trá lừa gạt lẫn nhau để bỏ chạy trước. Vì phải tháo chạy vội vã nên không có kế hoạch đầy đủ, vô kỷ luật, không nghiên cứu lộ trình, cầu cống, dân chúng và gia đình binh sĩ hỗn độn, người ta cho rằng Tướng Tư lệnh Phú không đủ khả năng kiểm soát đôn đốc cuộc lui binh cấp quân đoàn. Sự thực không hẳn như vậy, chẳng riêng gì tại quân khu 2 mà ngay cả Quân khu 1 kiện Tướng Ngô Quang Trưởng cũng đành bó tay không thể kiểm soát nổi tình hình rối loạn. Trên thực tế không có một lệnh tổng quát nào cả, cuộc lui binh không được tổ chức, giám sát, thi hành báo cáo chính xác, các ông Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên, Phụ tá hành quân Lê Nguyên Khang, Tham mưu trưởng liên quân Đồng văn Khuyên .. chưa hề một lần bay ra thị sát mặt trận, họ chỉ ngồi trong phòng lạnh điều binh khiển tướng bằng điện thoại. Các Tướng Trần văn Cẩm, Lê Duy Tất, Phạm văn Phú … những người chỉ huy cuộc triệt thoái bay trực thăng thật cao trên trời.. cả một quân đoàn không có ai chịu trách nhiệm. Sau này ngày 21-4-1975, sư đoàn 18 đã thực hiện rút quân tại Xuân Lộc có trật tự, an toàn, ít thiệt hại, họ đã cho di tản gia đình binh sĩ trước để lính an tâm chiến đấu. Cuộc rút quân của sư đoàn 18 cho thấy thất bại của Quân khu 2 và 1. – Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh – Không kiểm soát đôn đốc cấp chỉ huy. – Gia đình binh sĩ, dân chúng di tản làm rối loạn hàng ngũ quân đội. – Không duy trì được kỷ luật khiến cho cho bọn côn đồ mặc sức tranh cướp bắn giết nhau, dành đường đi, không còn trên dưới, không ai tuân lệnh ai, bọn đào binh đồ thừa cơ nước đục thả câu tung hoành cướp bóc, hãm hiếp y như trong một xã hội thời thượng cổ. Bọn lưu manh đã bêu xấu quân đội Việt Nam Cộng Hòa để cho kẻ địch triệt để khai thác tuyên truyền nói xấu ta. Theo Phạm Huấn trong ngày di tản Pleiku, lúc sắp khởi hành đã sẩy ra hỗn loạn, cướp bóc bắn phá… tại nhiều nơi trong và ngoài thị xã. Dân chúng chạy tị nạn làm náo loạn hàng ngũ quân đội, binh lính mất tinh thần nên nhiều đơn vị đã bị rã ngũ, tan hàng mặc dù chưa chạm súng với địch. Người dân cứ ùn ùn kéo nhau chạy đã khiến cho quân lính không còn tinh thần chiến đấu, dân tị nạn đã làm đảo lộn kế hoạch triệt thoái của Quân đoàn. Cuộc triệt thoái đã khiến cho Cao nguyên lọt vào tay Cộng quân chỉ trong mấy ngày, nó cũng kéo theo sự sụp đổ của toàn bộ Quân khu 2. Điều tai hại là cuộc triệt thoái đã để lọt vào tay Việt Cộng nhiều vũ khí đạn dược, xe tăng, đại bác. “Hậu cần vẫn bảo đảm, không những chỉ mới dùng hết một phần số lượng đạn dược đã dự tính trong kế hoạch mà lại còn lấy thêm được khá nhiều của địch” Văn Tiến Dũng (ĐTMX trang 117) Tỉnh Quảng Đức nằm ở tây nam Darlac (Ban Mê Thụôt) và phía bắc Lâm đồng vẫn còn đứng vững sau 12 ngày cầm cự tại quận Kiến đức phía tây thị xã Gia nghĩa. Ngày 9-3 một sư đoàn Việt Cộng chiếm quận Đức lập phía tây bắc Quảng Đức, còn lại quận Kiến đức phía tây thị xã vẫn chống trả lại cuộc tấn công vũ bão của lực lượng địch đông như kiến bên Phước Long đánh qua từ 9-3 cho tới 22-3. Nhờ sự chiến đấu anh dũng của hai tiểu đoàn 81, 82 thuộc liên đoàn 24 Biệt động quân và hai đại đội địa phương quân Phan Rang tăng cường quận Kiến Đức vẫn còn đứng vững, họ bảo vệ được thị xã yên ổn được gần hai tuần lễ. Đến ngày 22-3 tình hình tiếp liệu thiếu hụt, binh sĩ ngoài tiền tuyến quá mệt mỏi trước áp lực địch, tỉnh đã tính chuyện di tản mặc dù chưa có lệnh quân đoàn. Sáng 22-3 Đại tá tỉnh trưởng Quảng đức lấy tiền trong ngân khố đem lên trực thăng đưa về Sài gòn rồi quay trở lại, ông ghé Lâm đồng nghỉ ngơi xong lên máy bay trở về Quảng Đức nhưng trực thăng bị hỏng không quay trở về được, đó là theo lời ông ấy nói. Đến chiều Trung tá tiểu khu phó bèn cho lệnh tỉnh di tản, hai tiểu đoàn Biệt động quân tại Kiến đức gọi về tỉnh xin lệnh nhưng thấy các quan đã triệt thoái nên họ cũng lui binh trong trật tự, họ đã gài mìn trên đường về thị xã rồi rút theo đoàn quân của tỉnh.

hinhanhngayquochan3041975023 

Về điểm này trong Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975 của Phạm Huấn nói sai hoàn toàn. Trang 170: “Đại tá Nghìn, Tỉnh trưởng Quảng Đức liên lạc về khẩn báo: Quận Kiến đức mất. Quận Gia Nghĩa đang bị pháo nặng. Cộng quân từ An Lộc kéo về đã tiến sát Phi trường Quảng Đức”. Trang 171: “Hầm chỉ huy và hệ thống liên lạc của Tỉnh trưởng Quảng Đức bị pháo sập. Đại tá Tỉnh trưởng chỉ huy lực lượng còn lại của tiểu khu, mở đướng máu rút về hướng Lâm đồng”. Không biết Phạm Huấn căn cứ vào tài liệu nào nhưng chúng tôi là nhân chứng từ đầu chí cuối tại đây đã biết rõ sự việc. Hoàn toàn không có chuyện quận Kiến đức mất, thị xã Gia Nghĩa không hề bị pháo, địch còn bị cầm chân tại Kiến đức cách thị xã khoảng 15 km. Tỉnh trưởng vẫn ở tư dinh cho đến ngày di tản, hoàn toàn không có chuyện pháo sập hầm, ông tỉnh trưởng đã đi máy bay trực thăng từ sáng hoàn toàn không có chuyện mở đường máu rút về Lâm đồng. Đoàn quân triệt thoái từ Quảng Đức sau 5 ngày băng rừng thì tới Lâm Đồng ngày 27-3, tổng cộng khoảng sáu, bẩy nghìn người gồm Địa phương quân, Biệt động quân, cảnh sát.. và một số ít dân chúng vượt sông Kinh Đà qua được Lâm Đồng, đa số dân chúng bị bỏ lại vì không thể đem hết mọi người được. Cuộc di tản tốt đẹp, hiền lành, rất kỷ luật hoàn toàn không sẩy ra lộn sộn nào đáng tiếc. Ngày 27-3 đoàn quân di tản từ Quảng đức tới được Lâm đồng nhưng thật không may, ngày họ tới nơi cũng là lúc Lâm Đồng bắt đầu di tản về Phan Rang trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người. Từ hai ngày trước sư đoàn 7 Việt Cộng thuộc quân đoàn 4, dưới quyền điều động của Trần Văn Trà chiếm Định Quán, Hoài Đức, Giá Rai ..

bdq_loisuoi 

 rồi tiến quân đánh tỉnh Lâm Đồng. Chúng tiến theo đội hình xe tăng đi đầu rồi bộ binh, pháo binh, hậu cần theo sau tiến theo đường 20 gặp đồn đánh đồn, gặp bót đánh bót. Tỉnh trưởng Lâm Đồng bỏ trốn từ hai giờ sáng, lấy tiền trong ngân khố chạy lên Đà Lạt bằng xe díp, sự thực không riêng gì Lâm Đồng, Quảng Đức mà tại cả hai Quân khu 1 và 2, nhiều đơn vị trưởng, nhiều sĩ quan cao cấp thấy tình hình bi đát đã bỏ đơn vị chạy tháo thân. Cuộc di tản tại Lâm Đồng về Phan Rang được tiến hành có trật trật tự, không sẩy ra hỗn loạn như cảnh triệt thoái trên đường số 7B có lẽ vì không bị Việt Cộng truy kích bắn phá tơi bời. Trong khi ấy hai trung đoàn Việt Cộng băng rừng từ Phước Long qua tiến chiếm quận Di Linh, chiều tối hôm ấy, pháo binh thuộc địa phận Đà Lạt bắn thả dàn vào Di Linh đang nằm trong tay Cộng quân. Hai hôm sau Đà Lạt cũng di tản về Phan Rang. Vùng Cao nguyên mất, chủ lực Quân đoàn bị thiệt hại gần hết nhưng ở duyên hải sư đoàn 22 bộ binh vẫn giữ vững phòng tuyền ở Bình Khê trên Quốc lộ 19, ở Tam Quan Bắc Bình Định, hai trung đoàn 41, 42 thuộc sư đoàn 22 chống trả mãnh liệt cuộc tấn công của sư đoàn 3 Việt Cộng dưới chân đồi Bình Khê phía tây Qui Nhơn. Hai bên giằng co nhau từng ngọn đồi, Cộng quân bị thiệt hại nhiều trong trận đánh. Trung đoàn 95B, sư đoàn 968 Cộng quân được tăng cường tấn công hai trung đoàn 41, 42 nhưng ta vẫn giữ được phòng tuyến cho đến 30-3. Ở duyên hải, Cộng Sản tăng viện thêm từ Quảng Ngãi đánh Tam Quan, Bồng Sơn ngày 25-3, Trung đoàn 47 sau 3 ngày chiến đấu rút về căn cứ không quân Phù Cát lập phòng tuyến mới ở đó. Sư đoàn 320 Việt Cộng sau khi đánh phá đoàn di tản trên tỉnh lộ 7B xong nhiệm vụ tiến về Tuy Hoà. Sư đoàn 10 cùng với xe tăng, đại bác từ Phước An theo đường 21 tiến về Khánh Dương ngày 27-3 để tấn công Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù. Đặc công, thám sát Việt cộng xâm nhập Qui Nhơn đóng chốt, cắt đường giao thông, địa phương quân của ta bây giờ biến mất hết. Sư đoàn 22 được lệnh rút về Qui Nhơn. Ngày 30-3 trung đoàn 41 và 42 được lệnh rút khỏi mặt trận Bình Khê, trung đoàn trưởng trung đoàn 42, trung tá Nguyễn Hữu Thống đã năn nỉ xin tư lệnh ở lại đánh, ông nói tình hình chưa đến nỗi, nếu rút đi sau này khó đem quân trở lại. Nhưng đã quá trễ, khi hai trung đoàn vào thị xã Qui Nhơn, họ bị các chốt địch bên trong thị xã chận đánh, địa phương quân ta đã di tản, Qui nhơn đã nằm trong tay sư đoàn 3 Việt Cộng. Sau 3 ngày chiến đấu cộng với hải pháo yểm trợ, trung đoàn 41, 42 phá được phòng tuyến Việt Cộng ở Nam thành phố. Quân của hai trung đoàn 41, 42 thuộc sư đoàn 22 tập trung một địa điểm phía nam cách bến tầu 6 cây số chờ di tản. Hai giờ sáng 1-4 ba tầu hải quân cập bến chở đám binh sĩ còn lại của sư đoàn, trung đoàn trưởng trung đoàn 42, Trung tá Nguyễn hữu Thông từ chối di tản và ở lại tự sát. Trung đoàn 47 sau hai ngay cố thủ bị đánh bật ra khỏi phi trường Phù Cát,trên đường di tản về Qui Nhơn trung đoàn bị phục kích tại quận lỵ, tiểu đoàn trưởng địa phương quân tự tử, xác còn nằm trước văn phòng quận. Trung đoàn 47 mất đi hơn nửa quân số coi như bị loại khỏi vòng chiến, trong cơn tuyệt vọng Đại tá Lê Cầu, trung đoàn trưởng trung đoàn 47 cũng tự sát. Sư đoàn 22 khi được tầu chở về Vũng Tầu chỉ còn hơn 2,000 quân. Sáng 2-4 Việt Cộng chiếm Tuy Hoà, địa phương quân rút về Nha Trang, tại đèo Cả phía nam Phú Yên tiểu đoàn Biệt động quân 34 bị thất thủ sau hai ngày cầm cự. Tại Khánh Dương sư đoàn 10 Việt Cộng và lữ đoàn 3 Dù giao tranh dữ dội ngày 27-3, Việt Cộng được pháo binh, xe tăng yểm trợ đã phá được phòng tuyến của ta, tiếp viện cho Lữ đoàn Dù bị chận đánh, Nhẩy Dù giữ được Khánh Dương một tuần thì thất thủ ngày 2-4, Lữ đoàn Dù tan rã trước áp lực quá mạnh của địch chỉ còn hơn 300 lính chạy về Nha Trang. Việt Cộng chiếm trung tâm huấn luyện Dục Mỹ, Ninh Hoà. Nha Trang đã trở thành vô chính phủ như nhiều thành phố khác, tù quân lao phá ngục trốn ra lấy súng của đám tàn quân bỏ chạy bắn loạn xạ, cướp bóc dữ dội như thời thượng cổ. Trưa 2-4 Trung tướng Phạm Quốc Thuần chỉ huy trưởng Trung tâm Dục Mỹ đến Bộ tư lệnh Quân đoàn gặp Tướng Phu, hai người bàn bạc với nhau chừng 15 phút rồi cùng đi tới phi trường Nha Trang. Tướng Phú lên trực thăng bay đi tìm các đơn vị, đến chiều trở lại Nha Trang ông báo cáo với Bộ Tổng tham mưu biết không liên lạc được với đơn vị nào. Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho ông phối hợp Hải, Không quân để tổ chức phòng thủ phi trường Nha Trang. Nửa tiếng sau Tướng Phú bay khỏi Nha Trang, ông không nói gì với Ban Tham mưu quân đoàn hay bàn thảo kế hoạch gì cả, quá tuyệt vọng ông bay về Sài Gòn nhập bệnh viện Cộng Hoà ngày 4-4. Tướng Phú không còn tinh thần để chỉ huy vả lại Quân đoàn 2 của ông cũng chẳng còn gì cả. Khi ấy Ban Tham mưu Quân đoàn 2 bèn quyết định di tản khỏi Nha Trang. Ngày 2-4 các đơn vị của Tuyên Đức, Lâm Đồng rút về Phan rang để tháo chạy về miền Nam. Làn sóng tỵ nạn miền Trung từ Quân khu 1, và phía bắc Quân khu 2 đổ về Phan Rang khiến cho cả tỉnh hốt hoảng nhập bọn chạy về phía nam. Địa phương quân, cảnh sát, công chức Phan Rang… nhiều người bỏ đơn vị để chạy loạn. Tỉnh trưởng Đại Tá Trần Văn Tư cho phá hủy máy móc và một số cơ sở quan trọng rồi rút về Phan Thiết. Bộ Tổng tham mưu khi ấy bèn lấy Phan Rang và Phan Thiết, hai tỉnh cuối cùng của Quân đoàn 2 đem sáp nhập vào Quân khu 3 kể từ ngày 4-4-1975, Quân đoàn 3 cũng gửi Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ra tăng cường. Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 Bộ Tổng tham mưu gửi nhiều toán thám sát vào hai vùng đông bắc và tây bắc Phan Rang để dò thám hoạt động của Cộng quân. Bộ Tư lệnh tiền phương của Quân đoàn 3 do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chỉ huy đặt tại phi trường Phan rang, Tỉnh trưởng Phan Rang được triệu hồi để tổ chức lại hành chánh và phòng thủ tỉnh. Trật tự được vãn hồi, tại phía tây Phan Thiết sư đoàn 7 Việt Cộng đang gây áp lực, toán thám sát cho biết địch tập trung 2 sư đoàn 3 và 10 tại Cam Ranh cách Phan Rang 45 km. Quân đoàn 3 lại cho rút Lữ đoàn Dù về lại vùng 3 để phòng thủ Quân khu, thay vào đó cho tăng cường Phan Rang một trung đoàn của sư đoàn 22 mới trang bị, bổ sung, một liên đoàn Biệt động quân, một tiểu đoàn thiết giáp. Cuộc thay đổi quân sắp hoàn tất thì ngày 4-4 Việt Cộng tấn công dữ dội, Tướng Nghi xin giữ lại một tiểu đoàn Dù. Lực lượng Ninh Thuận, Phan Rang bây giờ gồm: một tiểu đoàn Dù, một trung đoàn bộ binh, một liên đoàn Biệt động quân, 4 tiểu đoàn địa phương quân, một chi đoàn thiết giáp M-113, sư đoàn 6 Không quân, Hải quân gồm 2 khu trục hạm, duyên đoàn 27, một giang pháo hạm, một hải vận hạm, một số tầu yểm trợ. Phan Rang phố xá vắng tanh, dân chúng đã di tản về Phan Thiết. Ngày 14-4 sư đoàn 3 và 10 Việt Cộng tấn công tuyến phòng thủ Phan Rang theo Quốc lộ 1 và 11 đánh vào phi trường, tại đây tiểu đoàn Dù đụng độ với Việt Cộng, địch chết bỏ xác 100 tên. Ngày 15-4-1975 Ông Trần Văn Đôn, Phó Thủ tướng đặc trách Quốc phòng và Tướng Toàn thị sát mặt trận. Bị quân trú phòng đánh trả ác liệt Việt Cộng tăng thêm sư đoàn 325 và nhiều xe tăng đại bác tấn công phi trường Phan Rang đến trưa thì phòng tuyến vỡ, Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh mặt trận, Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang tư lệnh sư đoàn 6 không quân, Đại tá Nguyễn Thu Lương lữ đoàn trưởng Dù được ghi nhận mất tích. Toàn tỉnh Ninh Thuận mất ngày 16-4, hai hôm sau ngày 18-4 mất Phan Thiết, Quân khu 2 hoàn toàn thất thủ. Cuộc triệt thoái Cao nguyên đã khiến cho Quân đoàn 2 mất gần hết chủ lực quân, chỉ còn sư đoàn 22 tại vùng duyên hải mặc dù chiến đấu rất anh dũng nhưng không thể chống lại 5 sư đoàn Cộng quân, cuối cùng toàn bộ Quân khu đã rơi vào tay Cộng Sản.
thienthanmudo 

Nhiều người đổ choTướng Phú đã làm mất Ban Mê Thuột và sụp đổ Quân đoàn 2, Phạm Huấn cho rằng ông chưa đủ khả năng nắm giữ một quân đoàn, có người cho Tướng Phú đã vận động để được làm Tư lệnh Quân đoàn, một chức vụ không tương xứng với tài thao lược của ông… Ngoài ra theo Phạm Huấn tại Quân đoàn 2 có những tị hiềm các nhân, kình chống nhau giữa những phụ tá của Tướng Phú, của những phe cánh trong quân đội và giữa Tướng Phú với những ông Tướng văn phòng ở Sài Gòn của Bộ Tổng Tham mưu. Quân đoàn 2 chia rẽ nội bộ, Tướng Phú không được thuộc hạ ở Quân khu 2 nể trọng có cảm tình, ông lại không được Tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên nể nang, thù trong giặc ngoài, tất cả cũng đã làm suy yếu phần nào nội bộ của phe ta. “Vì sự đố kỵ, bất mãn, bất lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan cao cấp và có trách nhiệm nhất đưa đến sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân khỏi Cao nguyên.” Phạm Huấn (CTTCN, trang 125) Sự thực Tướng Phú có một phần trách nhiệm để mất Ban MêThụôt vào tay Cộng quân vì ông đã mắc lừa kế nghi binh của địch, nhưng sự sụp đổ Quân đoàn 2 như chúng ta đã thấy Tướng Thiệu, tổng Tư lệnh là người chịu trách nhiệm nhiều nhất. Tướng Phú đã nhìn thấy cái nguy hại của kế hoạch lui binh, ông đã năn nỉ Thiệu xin ở lại tử thủ và nếu cần sẵn sàng chết tại Pleiku để đẩy lui cuộc tấn công của địch, nếu được yểm trợ về tiếp liệu ta có thể cầm cự cho tới mùa mưa, lúc ấy hai bên không thể giao chiến được nữa, nhưng Thiệu đã ngoan cố bắt Phú phải lui binh bằng được. Cuộc triệt thoái được thi hành quá vội vã theo lệnh của Tướng Thiệu nên dù tài cán đến đâu vị tư lệnh Quân đoàn cũng khó thể tránh được thảm bại ngay trước mắt. Tổng tư lệnh quân đội đã quá độc đoán trong quyết định tai hại khủng khiếp mà tập đoàn Tướng lãnh không ai dám cản ông, Tướng Phú đã can đảm cản ngăn Thiệu nhưng vai trò, chức vụ của ông so với tập đoàn tướng lãnh còn nhỏ, ông không thể quay ngược bánh xe mà đành chịu đứng nhìn nó lao xuống vực sâu. Theo dư luận chung các nhà quân sự, chính khách cũng như giới truyền thông báo chí ai nấy đều kết án Tướng Thiệu là người đã gây lên tấn thảm kịch đầy máu và nước mắt này, có người nghi ngờ Thiệu đã nhận lệnh của Mỹ giật sập miền Trung. “Rõ ràng là lệnh giật sập miền Trung là do từ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, có điều câu hỏi đặt ra ở đây là Thiệu giật sập miền Trung là do nghe lệnh của Mỹ hay tự ý một mình hành động? . . . “Trước khi vùng Một thất thủ thì ở vùng 2, toàn bộ quân đoàn 2 đóng tại Pleiku được lệnh di tản về Tuy Hoà bằng liên tỉnh lộ số 7. Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng quân đoàn 2, sau này ra Hải ngoại có lên một đài phát thanh và có kể chuyện lại rằng, khi nhận được lệnh rút quân, một tướng lãnh của Quân đoàn 2 là tướng Cẩm đã nhận xét với ông “Thôi rồi bàn cờ đã sắp xếp xong, chẳng còn gì để nói chuyện đánh đấm nữa” Một thiếu tá pháo binh bầy tỏ sự tức giận với ông Lý ” Súng đạn còn đầy đủ, quân lính còn đông, sao lại bỏ chạy như thế này”. Chuyện kể của Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 Lê Khắc Lý cho thấy khi Quân đoàn 2 được lệnh rút từ Pleiku về Tuy Hoà thì coi như số phận của Quân đoàn 2 cũng được sắp xếp xong cho phù hợp với kế hoạch giật sập vùng 1 và vùng 2 của Sài Gòn” Trần Việt Đại Hưng (Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975). Những ý kiến trên đây chỉ là giả thuyết. Nhà báo PhạmTrần trong bài Người Điên Nguyễn Văn Thiệu Và Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975″. “Có đọc sách Phạm Huấn, chúng ta mới thấy rõ tư cách lãnh đạo của ông Thiệu, Ông Khiêm và Đại tướng Viên… tác giả viết rất kỹ về những lệnh trước đá lệnh sau của ông Thiệu …. đã khiến cho tình hình bi đát càng khốn khó hơn. Qua những tiết lộ của Phạm Huấn, tôi có cảm tưởng như vào thời gian ấy chúng ta bị lãnh đạo bởi một ông Tổng thống điên mà chúng ta không biết. Rất tiếc là kẻ điên không bị bỏ lại, không chết mà hằng trăm ngàn chiến sĩ và đồng bào ta đã bị bỏ lại, bị gục ngã trên tỉnh lộ 7, trên các Quốc lộ 14, 19… .. cả ông lẫn Đại Tướng Viên, Thủ Tướng Khiêm chỉ biết ngồi ở phòng lạnh gọi điện thoại phán lệnh này lệnh kia. Trong khi đó chiến sĩ và đồng bào ta tiếp tục ngã gục cho cái quyết định ma quái ở Cam Ranh” Phạm Huấn (Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 241) Phạm Huấn cũng cho rằng các Tướng lãnh đạo Thiệu, Khiêm, Viên đã tỏ ra không có tinh thần trách nhiệm can đảm, không dám đi tới tận mặt trận như các tướng ngoại quốc De Lattre, Navarre đã xuống Vĩnh Yên, Hoà Bình, Điện Biên Phủ hoặc như Westmoreland lên Cao Nguyên khích lệ tinh thần binh sĩ, không ông tướng nào có được hành động anh hùng mà chỉ ngồi văn phòng ra lệnh. Phạm Huấn cũng chê tư các các tướng Việt Nam chỉ thích gửi con đi du học nước ngoài không có được tinh thần như De Lattre đưa con trai ra mặt trận đóng tại Ninh Bình, Đô đốc Sharps, tư lệnh Thái Bình Dương để con trai, một thiếu tá phi công tham gia chiến trận. Phạm Huấn kết án các Tướng Thiệu, Khiêm, Viên, Quang là những kẻ chủ mưu và đồng lõa trong quyết định đưa tới sụp đổ toàn diện Quân đoàn 2. Nhà báo, 

xuanloc1 

dân biểu Trần Văn Ân trong lời Bạt cho cuốn Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên Năm 1975 viết. “đây là cuốn sách đầu tiên đã nói lên được cái thân phận vừa đau thương vừa hào hùng của người lính Cộng Hoà thấp cổ bé họng, đã mô tả được những uất nghẹn của của người Sĩ quan Việt Nam nhìn thấy thảm cảnh Quân đội tan hoang mà bó tay chịu chết, và cũng đã phơi bầy được cái hậu trường tàn nhẫn, hèn nhát và bất nhân của nhóm người lãnh đạo Quốc Gia và chỉ huy Quân đội. . . . . Ba ông tướng cao cấp khác, có mặt tại Hội Nghị Cam Ranh cùng với ông Thiệu, đã hoàn toàn im lặng, không góp bàn gì về cái quyết định giết người của ông Thiệu cả” (CTTCN 1975, trang 265, 266) Trần Văn Ân đã lên án gay gắt quyết định tàn nhẫn của Tướng Thiệu và thái độ vô trách nhiệm của tập đoàn Tướng lãnh trước nhưng cái chết oan uổng của hằng nghìn hằng vạn người. Họ là những kẻ tán tận lương tâm đã đẩy bao nhiêu người vào chỗ chết. “Người đọc cũng thấy rõ sự tàn nhẫn, lạnh lùng của TổngThống Thiệu khi ban hành thứ mệnh lệnh tự sát choTướng Phú, và thái độ im lặng giả dối, sống chết mặc bay của những tướng hiện diện…. . . . Câu chuyện Phạm Huấn kể về cái Hội Nghị Cam Ranh còn đặt ra một khía cạnh khác của nhân tình thế thái: đó là khía cạnh đạo đức của mệnh lệnh.Trong suốt buổi họp từ ông Thiệu, ông Khiêm tới ông Viên, Ông Quang, không một ai đề cập tới số phận của hằng triệu dân, hàng trăm nghìn Địa Phương Quân, Nghĩa Quân và gia đình binh sĩ sẽ bị bỏ rơi lại, và hàng chục ngàn xác chết Quân Dân chắc chắn sẽ đầy rẫy dọc theo con đường tử lộ. Ông Thiệu phân tách tình hình rồi lạnh lùng chỉ thị rút chủ lực quân thật nhanh, thật bí mật về miền Duyên Hải… Các Ông Tướng khác giữ im lặng, thản nhiên như mọi việc đã được quyết định rồi và không còn gì để bàn cãi nữa” Trần Văn Ân (CTTCN 1975 trang 267) Những lời kết án gay gắt của Trần văn Ân hay của Trần Việt Đại Hưng, của Phạm Trần … cũng như của bao nhiêu người khác nữa thể hiện nỗi uất hận của quân dân đối với tập đoàn lãnh đạo bất tài, tham ô, sợ chết và cái quái thai Hội Nghị Cam Ranh bất nhân, tàn ác của họ.

soldier2 

Cái Hội Nghị giết người ma quái ấy của bọn tán tận lương tâm đã bị muôn đời nguyền rủa, trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn cò trơ trơ, dẫu cho đến muôn đời không bao giờ cạn lời của miệng thế thị phi. “Lịch sử sẽ ghi những gì về Hội Nghị Cam ranh và về các tướng lãnh đạo của nền Đệ Nhị Cộng Hoà? Sử liệu có lẽ sẽ cần năm ba chục năm để hoàn tất. Nhưng ngay bây giờ thì sử xanh đã truyền tụng quá nhiều. Sử xanh ghi rằng. “Hội Nghị Cam Ranh ngày 14.3.1975 và cuộc triệt thoái Cao nguyên ngày 17.3.1975 không phải là khởi đầu sụp đổ của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà Việt Nam

.thieu 

Hai biến cố này thực sự là dứt điểm vụt tắt cuối cùng của cơn hấp hối đã dai dẳng nhiều năm của chế độ dũng phu Nguyễn Văn Thiệu-Trần Thiện Khiêm trong đó một khối quân đội gồm Đa Số Tướng lãnh và quân sĩ tài giỏi, anh hùng đã bị lợi dụng, thao túng và chết uổng bởi một nhóm nhỏ Tướng lãnh cầm quyền tham ô, bất lực và thiếu đạo đức, với sự tiếp tay của một thiểu số người vô tài bất hạnh; kể cả một số khoa bảng thời cơ và bịp bợm. Tiền bạc của nhân dân mà họ mang ra ngoại quốc có thể giúp họ sống sung túc tới trăm tuổi là cùng. Nhưng tội lỗi của những Tướng lãnh đạo sẽ được lịch sử ghi rõ đời đời. Lương tâm đui chột của họ có thể làm ngơ, nhưng lịch sử bao giờ cũng sáng suốt và tiếng nói dân gian bao giờ cũng công bình. Liệu rồi đây, khi họ nằm xuống, những nấm mồ của họ có sẽ được chôn tại miền nắng ấm quê nhà hay sẽ phải nằm cô đơn giữa một miền tuyết lạnh Mỹ Châu, Âu Châu? Liệu rồi đây nhân dân có đủ khoan dung cho phép họ nằm cạnh những nấm mồ của các chiến sĩ anh hùng đã chết trên chiến địa, đã tự sát khi bại trận hay đã chết trong lao tù? Những anh hùng này đã hy sinh cho một chính nghĩa cao đẹp nhưng bị chết uổng vì một Lãnh Đạo tồi tàn” Trần Văn Ân (CTTCN trang 272). Tướng Phú phải chịu trách nhiệm phần nào trong cuộc hành quân phá sản và làm sụp đổ Quân đoàn. Là người tự trọng ông đã can đảm tự xử lấy bản thân vì đã không chu toàn trách nhiệm. Dù sao Tướng Phú vẫn còn có tư cách hơn những anh hèn bỏ chạy, đó là sự khác biệt giữa kẻ tiểu nhân và người quân tử, để kết thúc bài này chúng tôi xin mượn lời ký giả Trần Văn Ân luận bàn về tư cách của người chiến sĩ anh hùng thà chết vinh còn hơn sồng nhục.

pvp 

 “Tướng Phú đã nằm xuống…. với đầy đủ khí tiết của một cấp chỉ huy đã dám tự xử mình khi trách nhiệm không hoàn tất. Tại sao những Tướng lãnh đạo nền Đệ II Cộng Hoà lại không thấy được tội lỗi của mình và không dám tự xử? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa người quân tử và kẻ tiểu nhân, giữa người yêu nước thật sự và người làm chính trị vì tham vọng cá nhân? Phải chăng đó là sự cách biệt giữa Tướng tác chiến Phạm Văn Phú và các Tướng chính trị Nguyễn Văn Thiệu Trần Thiện Khiêm? Ước mơ của tôi là một ngày nào quê hương được giải phóng, tôi sẽ về lại Việt Nam thăm mộ Tướng Phú và các chiến sĩ vô danh khác, thắp nén hương tưởng nhớ những anh hùng đã vị quốc vong thân, và xám hối về những tội lỗi của mình” (CTTCN 1975 trang 273)
Trọng Đạt

Friday, December 6, 2013

Quân Sử Biệt Động Quân


 

Quân Sử Biệt Ðộng Quân


Ngày 1-7-1960, Binh chủng Biệt Ðộng Quân chính thức được thành lập. Các Sỹ Quan, Hạ Sỹ Quan và Binh Sỹ ưu tú được đưa từ các Sư Ðoàn Bộ Binh, các Binh Chủng thiện chiến về làm nòng cốt cho các Ðại Ðội BÐQ tân lập.
Khởi thuỷ có 65 đại đội BĐQ được thành lập. Năm 1961, đã có 81 đại đội BĐQ hành quân biệt lập.
- Năm 1962, các Tiểu Đoàn BÐQ được thành lập
- Năm 1966, các Liên Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 BÐQ được thành lập.
- Năm 1968, Liên Ðoàn 6 BĐQ được thành lập
- Năm 1973, Liên Ðoàn 7 BĐQ được thành lập

Đầu năm 1974, binh chủng Biệt-động-quân gồm 45 tiểu-đoàn chia ra làm 15 liên-đoàn, được phối-trí như sau.
Quân-khu I
  • Liên-đoàn 11/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 68, 69, 70.
  • Liên-đoàn 12/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 21, 37, 39.  (Liên-đoàn 1 cũ)
  • Liên-đoàn 14/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 77, 78, 79.
  • Liên-đoàn 15/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 60, 61, 94.
Quân-khu II
  • Liên-đoàn 21/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 72, 89, 96.
  • Liên-đoàn 22/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 62, 88, 95.
  • Liên-đoàn 23/BĐQ. Cáctiểu-đoàn: 11, 22, 23.  (Liên-đoàn 2 cũ)
  • Liên-đoàn 24/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 63, 81, 82.
  • Liên-đoàn 25/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 67, 76, 90.
Quân-khu III
  • Liên-đoàn 31/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 31, 36, 52.  (Liên-đoàn 3 cũ)
  • Liên-đoàn 32/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 30, 33, 38.   (Liên-đoàn 5 cũ)
  • Liên-đoàn 33/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 64, 83, 92.
Trừ bị cho bộ Tổng-tham-mưu
  • Liên-đoàn 4/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 42, 43, 44.
  • Liên-đoàn 6/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 34, 35, 51.
  • Liên-đoàn 7/BĐQ. Các tiểu-đoàn: 32, 58 (41) và 85.
Đến cuối năm 1974, Bộ Tổng Tham Mưu ra lệnh cho Bộ chỉ huy Biệt-Động-Quân thành lập thêm hai liên đoàn 8 và 9.
BIỆT ĐỘNG QUÂN QLVNCH
BĐQ Vũ đình Hiếu
I. LỜI GIỚI THIỆU
Binh chủng Biệt Động Quân QLVNCH được thành lập vào tháng Bảy năm 1960 gồm những đại đội biệt lập. Những đại đội Biệt Động Quân này được huấn luyện đặc biệt về du-kích chiến để tiêu diệt những đơn vi Việt Cộng. Ngay từ lúc đầu, các chiến sĩ Biệt Động Quân đã nổi tiếng là dũng mãnh với lối tấn công chớp nhoáng. Trưởng thành trong khói lửa, các đại đội, tiểu đoàn Biệt Động Quân đã tham dự hầu hết những chiến dịch, những cuộc hành quân nổi tiếng, những trận đánh đẫm máu trên khắp chiến trường. Họ là những quân nhân can đảm, hãnh diện đội chiếc mũ beret mầu nâu, mang trên vai phù hiệu binh chủng con báo đen nhe nanh. Phù hiệu con báo đen thường được sơn đằng trước nón sắt để làm khiếp đảm tinh thần địch quân, do đó Biệt Động Quân còn được mang danh là “Cọp”.
Khi cuộc chiến lan rộng, các đại đội Biệt Động Quân biệt lập được gom lại, tổ chức thành cấp tiểu đoàn để có thể đối đầu với một đơn vị địch cấp lớn. Đến năm 1967, chiến tranh Việt Nam đã trở thành chiến tranh quy ước với những trận điạ chiến. Binh chủng Biệt Động Quân được tổ chức lên tới cấp liên đoàn để có thể hành quân trên một chiến trường rông lớn hơn. Kể từ ngày thành lập, binh chủng Biệt Động Quân đã tham dự các trận đánh nổi tiếng sau đây:
1964: Bình Giả, hai tiểu đoàn 33 và 38
1965: Đồng Xoài, tiểu đoàn 52
1968: Tết Mậu Thân, tất cả các đơn vị Biệt Động Quân trên bốn Quân Khu.
1970: Vượt biên qua Kampuchia, các liên đoàn: 2, 3, 4, 5, 6
1971: Hạ Lào, liên đoàn 1
1972: Mùa Hè Đỏ Lửa, các liên đoàn: 1, 3, 4, 5, 6, 7

II. CÁC TRẬN ĐÁNH NỔI TIẾNG
Bình Giả (28/12/1964)
Bình Giả là một ngôi làng nhỏ trong tỉnh Phước Tuy, dân số khoảng 6000 người, đa số là người Công Giáo di cư từ miền Bắc đến định cư sau năm 1954. Làng Bình Giả có một vị trí chiến lược cách thành phố Saigon khoảng 67 cây số về hướng tây.
Hai trung đoàn Việt Cộng 271, 272 thuộc công trường (sư đoàn) 9 VC từ chiến khu C và D di chuyển ra vùng duyên hải để nhận đồ tiếp tế từ miên Bắc. Sau đó cả hai đơn vị tập trung lại, tổ chức huấn luyện trong những cánh rừng cao su xung quanh làng Bình Giả.

Để mừng kỷ niệm bốn năm ngày thành lập MTGPMN, một tiểu đoàn VC tấn công làng Bình Giả sáng ngày 28 tháng 12 năm 1964û. Ngôi làng nhỏ này chỉ có hai trung đội Điạ Phương Quân phòng thủ. Sau khi chiếm xong làng, địch quân được tăng viện thêm quân để cố thủ. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III cho trực thăng đổ quân tiểu đoàn 33 Biệt Động Quân xuống Bình Giả để phản công. Quân Việt Cộng đã biết trước, phục kích nơi bãi đáp trực thăng làm thiệt hại đơn vị BĐQ. Các quân nhân BĐQ rút vào một nhà thờ trong làng cố thu,û đợi quân tăng viện.
Ngày hôm sau, trực thăng đổ thêm tiểu đoàn 38 BĐQ nơi hướng nam làng Bình Giả, để các chiến sĩ Mũ Nâu tấn công từ hướng nam lên. Trận đánh kéo dài cả ngày, BĐQ vẫn chưa tiến được vào làng vì địch đã đào hố chiến đấu, tổ chức phòng thủ rất vững chắc.
Sáng ngày 30, tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến được gửi đến tăng viện cho Biệt Động Quân. Các đơn vị VC đã rút lên hướng đông bắc và QLVNCH đã lấy lại được làng Bình Giả. Đến tối, địch quân tấn công trở lại nhưng bị đẩy lui, tuy nhiên địch bắn hạ được một trực thăng võ trang, rớt trong rừng cao su Quang Giao cách làng Bình Giả khoảng 4 cây số.
Qua ngày 31, tiểu đoàn 4 TQLC được lệnh tiến lên, đi tìm chiếc trực thăng lâm nạn cùng phi hành đoàn. Khi đơn vị TQLC tiến đến gần nơi chiếc trực thăng, đại đội 2 bị phục kích, phần còn lại của tiểu đoàn lên tiếp cứu cũng bị thiệt hại nặng phải rút về Bình Giả.
Ngày 1 tháng Tư, hai tiểu đoàn Nhẩy Dù 1 và 3 được trực thăng đổ xuống nơi hướng đông làng, nhưng quân VC đã biến mất. Trận Bình Giả báo hiệu cho QLVNCH biết rằng địch quân có thể tổ chức những trận đánh lớn.
Đồng Xoài (0/9/1965)
Ngày 9 tháng Sáu năm 1965, Việt Cộng tung hai trung đoàn 762, 763 tấn công Đồng Xoài, quận Đôn Luân trong tỉnh Phước Long. Đúng 11 giờ 30, chủ lực quân địch tấn công trại Dân Sự Chiến Đấu do Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ vừa mới thiết lập. Bị tấn công bất ngờ, DSCĐ cùng với ĐPQ rút lui vào trong quận để chống trả lại lực lượng đông đảo của địch.

Quân VC mở bốn đợt tấn công nhưng vẫn không chiếm được quận. Tức giận, chúng quay trở lại trại DSCĐ tàn sát khoảng 200 đàn bà, trẻ em, vợ con của các quân nhân DSCĐ.
Sáng hôm sau, QLVNCH đưa một tiểu đoàn Bộ Binh và tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân (Sấm Sét Miền Đông) vào trận điạ. Tiểu đoàn BB bị phục kích nơi đồn điền cao su Thuận Lợi gây tổn thất nặng. Tiểu đoàn 52 BĐQ được không lực yểm trợ, tấn công như vũ bão. Các chiến sĩ Mũ Nâu đánh tan những toán quân VC đang bao vây quận Đôn Luân, sau đó quay trở lại càn quét địch ra khỏi trại DSCĐ trước buổi sáng ngày hôm sau 10 tháng Sáu, 1965. Trong trận này, Biệt Động Quân tịch thâu được nhiều tiểu liên xung kích AK-47, lần đầu tiên được địch quân xử dụng trên chiến trường.
Tết Mậu Thân 1968
Lợi dụng thời gian hưu chiến trong dip Tết Mậu Thân, quân Cộng Sản Bắc Việt và Việt Cộng bất thần mở một loạt những trận tấn công vào các thành phố trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Tất cả các đơn vị Biệt Động Quân trên khắp bốn vùng chiến thuật đã được điều động phản công, đánh đuổi địch quân ra khỏi các thành phố.

Trong thủ đô Saigon, tiểu đoàn 30 BĐQ đẩy lui địch ra khỏi khu vực Hàng Xanh. Tiểu đoàn 38 BĐQ tảo thanh khu vực chùa Ấn Quang. Các tiểu đoàn BĐQ 30, 33, 38 và đại đội Trinh Sát 5 thuộc liên đoàn 5/BĐQ đánh chiếm từng căn nhà, từng cao ốc trong khu vực Phú Lâm (Quận 6), trường đua Phú Thọ và khu Bình An trong quận 7 nơi có nhiều kênh rạch. Tiểu đoàn 41 BĐQ từ dưới vùng 4 được đưa lên tăng cường, tảo thanh khu vực hãng rượu Bình Tây. Tiểu đoàn 35 BĐQ thuộc liên đoàn 6/BĐQ càn quét địch trong khu vực Chợ Lớn.
Các tiểu đoàn 11, 22, 23 Biệt Động Quân thuộc liên đoàn 2/BĐQ trên vùng cao nguyên cũng tham dự những trận phản công đuổi địch ra khỏi các thành phố Plei-Ku, Đà Lạt, Qui Nhơn.
Trong Tết Mậu Thân, mặt trận ở Huế được coi là trầm trọng nhất. Các tiểu đoàn 21, 37, 39 thuộc liên đoàn 1/BĐQ đánh đuổi địch quân ra khỏi thành phố Đà Nẵng, Hội An. Mặt trận Huế coi như chấm dứt khi tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân cắm cờ trong khu Gia Hội.
Hành quân vượt biên qua Kampuchia (1970)
Ngoại trừ liên đoàn 1/BĐQ nằm ngoài vùng I chiến thuật, các liên đoàn 2, 3, 4, 5 và 6 đều tham dự hành quân vượt biên qua Kampuchia lục soát, phá hủy các căn cứ tiếp liệu, hậu cần của địch. Các đơn vị Biệt Động Quân tịch thâu được rất nhiều vũ khí đủ loại của giặc cộng và làm tiêu hao các công trường (sư đoàn) chính quy 5, 7, 9 Việt Cộng.

Hành quân Lam Sơn 719 (1971)
Hành quân Lam Sơn 719 đầu tháng Hai năm 1971 nhằm mục đích phá hủy các căn cứ điạ 604 của quân đội Bắc Việt. Căn cứ này nằm trên đất Lào nơi làng Tchépone. Tin tức tình báo cho biết, địch quân xây dựng nhiều kho tiếp liệu chứa lương thực, súng đạn. Căn cứ này còn được xử dụng làm nơi dưỡng quân cho các đơn vị địch sau những lần chạm súng với các đơn vị của ta. Ngoài ra về phiá nam, còn có thêm căn cứ 611, là nơi phát xuất cho các trận tấn công trong tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.

Liên đoàn 1/BĐQ là đơn vị trừ bị cho QĐ/I nên tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ba tiểu đoàn thuộc liên đoàn 1 được điều động như sau: tiểu đoàn 37 BĐQ nằm với bộ chỉ huy liên đoàn trong căn cứ hành quân tiền phương ở Tà Bạt, gần biên giới Lào Việt hướng Tây Bắc căn cứ Khe Sanh. Tiểu đoàn 21 BĐQ được trực thăng Hoa Kỳ đưa đến bãi đáp ?Biệt Động Quân Nam? (Ranger South), cách căn cứ hỏa lực 30 khoảng 5 cây số về hướng Đông Bắc. Ba ngày sau, tiểu đoàn 39 BĐQ xuống bãi đáp ?Biệt Động Quân Bắc? (Ranger North) khoảng 3 cây số Đông Bắc tiểu đoàn 21 BĐQ.
Nhiệm vụ của hai tiểu đoàn Biệt Động Quân là thăm dò mức độ chuyển quân của địch và ngăn cản các mũi dùi tấn công của địch vào hai căn cứ hỏa lực 30, 31 ở phiá nam. Trường hợp hai căn cứ này bị tràn ngập, địch quân có thể cắt đứt đường rút quân của ta trên đường số 9.
Mùa Hè đỏ lửa (1972)
Cuối tháng Ba năm 1972, ngoài vùng điạ đầu giới tuyến, CSBV xử dụng năm sư đoàn chính quy: 304, 308, 312, 324 và 325 mở trận tấn công tràn qua sông Bến Hải và từ bên Lào sang. Ngày 5 tháng Tư, trận tấn công quy mô thứ hai với ba công trường (sư đoàn) 5, 7, 9 thuộc Trung Ương Cục Miền Nam từ đất Campuchia tiến vào bao vây thị xã An Lộc. Trận cuối cùng xẩy ra trên vùng cao nguyên, lãnh thổ Quân Đoàn II. Ngày 6 tháng Tư, quân CSBV xử dụng ba sư đoàn thuộc mặt trận B3 (Tây Nguyên) và Quân Khu V gồm có sư đoàn 2, 3 (Sao vàng) và sư đoàn chủ lực 320 (Thép) tấn công các tiền đồn của QLVNCH trong tỉnh và thành phố Kontum.

Các liên đoàn Biệt Động Quân đang hành quân dưới vùng IV, bên Kampuchia hoặc trên lãnh thổ Quân Đoàn III: 4, 5, 6, 7 được đưa ra tham chiến ngoài vùng I và trên vùng cao nguyên. Cùng với các liên đoàn trừ bị 1 và 2 ngoài quân khu, các chiến sĩ Mũ Nâu đã sát cánh cùng với các binh chủng bạn giữ vững phòng tuyến. Liên đoàn 3/BĐQ đã nằm trong An Lộc cùng với sư đoàn 5/BB ngay từ những ngày đầu của trận chiến An Lộc
III. ĐOẠN KẾT
Trong suốt cuộc chiến, binh chủng Biệt Động Quân đã chiến đấu bảo vệ quê hương, nêu cao danh dự mầu cờ sắc áo của binh chủng. Các đơn vị Biệt Động quân đã được ân thưởng nhiều huy chương của cả hai chính phủ VNCH và Hoa Kỳ:

23 đơn vị BĐQ được ân thưởng huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu.
Tiểu đoàn 42/BĐQ được ân thưởng 7 lần, tiểu đoàn 44/BĐQ được 6 lần, tiểu đoàn 43 và liên đoàn 1/BĐQ được 4 lần.
Tiểu đoàn 42/BĐQ được ân thưởng huy chương của Tổng Thống Hoa Kỳ (Presidential Unit Citation) 2 lần. Các tiểu đoàn BĐQ khác được 1 lần: 44, 37, 39, 52, và 41/BĐQ.

Nhiều đơn vị BĐQ khác được huy chương Anh Dũng Bội Tinh của Quân Lực Hoa Kỳ.
Các đơn vị Biệt Động Quân đã làm bổn phận cuối cùng đối với đất nước, nhiều đơn vị đã chiến đấu đến 1 giờ chiều ngày 30 tháng Tư năm 1975. Họ đã được tạp chí Le Monde của Pháp ca tụng là “Những người lính danh dự cuối cùng của Miền Nam Việt Nam. “

Bietdongquan.com

Nguoi Lao Cong Dao Binh Ten Son

Người Lao Công Đào Binh Tên Sơn

Văn Lan


Thường Đức là tên của một quận lỵ xa nhất về hướng tây của tỉnh Quảng Nam. Hầu hết phần đất của quận bao gồm một phần của dãy Trường Sơn với những núi, núi, núi và núi. Một trong những thôn xã trù phú nhất của Quận tên là Hà Tân nằm tựa trên mũi sông nơi giáp lưu của con sông Côn đổ ra con sông Vu Gia.

Trên sườn đồi, về hướng tây, ở đầu xã là Trụ sở văn phòng Quận và cũng là Chi Khu Thường Đức.


Thường Đức - Hình chụp vào thập niên 60.
Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân chính thức dùng nơi đây làm hậu cứ từ ngày 14 tháng 11 năm 1970.

Giáp lưng Quận, trên đỉnh đồi là hậu cứ của Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân (TĐ79/BĐQ). Đây là một căn cứ do quân đội Mỹ thiết lập trước đây dùng làm nơi xuất phát của những đơn vị Nhảy Toán bao gồm cả Việt và Mỹ. Ngày 14 tháng 11 năm 1970, căn cứ được chuyển giao cho TĐ79/BĐQ. Ngoại trừ dăm ba lần Tiểu Đoàn về đây dưỡng quân sau những cuộc hành quân ở những vùng khác trên khắp Quân Khu 1, mỗi lần về nghỉ khoảng hai ba tuần. Hầu như quanh năm, Tiểu Đoàn chỉ để lại độ một Trung Đội, khoảng vài mươi người, để quản trị hậu cứ.

Trên một ngọn đồi nhỏ kế cận, về hướng tây, gần như cách biệt với Tiểu Đoàn là nơi đóng quân của Đại Đội 1. Vòng đai phòng thủ cũng như nơi ăn chổ ở của toàn thể Đại Đội là những lô-cốt, cách khoảng được nối liền bằng con giao thông hào. Nằm giữa ngọn đồi là một căn nhà tôn, vách lá, dùng làm chỗ văn phòng Đại Đội. Bên ngoài văn phòng có trồng năm ba cây làm cảnh. Dưới sức nóng hừng hực của mặt trời, màu xanh của lá cây trên một giải đất vàng vỏ chỉ toàn những sỏi đá, mang lại một ít tươi mát cho những thằng lính xa nhà như chúng tôi.

Phía bên trái văn phòng Đại Đội là một căn nhà tôn không vách dùng làm nhà ăn. Ngoài giờ ăn, đây là nơi duy nhất mà bọn lính chúng tôi dùng để trốn nắng trong những buổi trưa hè oi ả.



... một trưa hè năm 1973

Trời nắng như thiêu đốt trên ngoạn đồi bản doanh Đại Đội. Hầu hết mọi người đều xuống dưới làng. Những ai có gia đình ở dưới đó thì được về nhà. Đứa nào thuộc dạng con bà xơ nhưng có tiền thì cũng xuống làng vào quán ăn uống đấu hót. Còn đám con bà xơ, thuộc loại bần cố nông, còn lại như chúng tôi, khoảng năm bảy đứa, thì tụ
tập ở căn nhà ăn ngồi trốn nắng và tán dóc trên những cái bàn ghế làm bằng những thanh gỗ lấy ra từ những thùng chứa đạn.

Một thằng lên tiếng hỏi thinh không
:

- Đứa nào có chuyện tiếu lâm nào hay hay kể nghe chơi?

Cả bọn ngồi im không có thằng nào trả lời. Một đứa, tương đối có khả năng nói chuyện diễu hơn những đứa khác bèn nói
:

- Tụi mày có nghe cái chuyện "Thỏi xúc xích của cái bà góa phụ với cái ông xã trưởng" hồi nào chưa?

Những giọng khác hỏi lại
:

- Có phải cái chuyện ông xã trưởng đòi ăn cái khúc xúc xích ở trên cái bàn thở đó không?

- Có phải cái chuyện này mấy ông Huấn Luyện Viên ở Dục Mỹ kể hở?

Đứa tính kể chuyện ầm ừ
:

- Ờ, chắc chuyện đó đó.

Cả đám cười rộ lên rồi có tiếng gạt ngang
:

- Thôi, kể chuyện khác đi mày. Mỗi lần nghe cái chuyện đó mà tao thấy ớn cho cái thằng nhỏ quá. Ghê bỏ mẹ.

Thằng tính kể chuyện bị cụt hứng nhăn răng cười thôi không nói nữa.


Một chặp sau, như nhớ ra chuyện gì nó bèn nói :

- Được rồi, có chuyện này hay lắm để tao kể cho tụi mày nghe.

Sau khi biết chắc ai cũng muốn nghe, nó bèn kể
:

- Tụi mày còn nhớ hồi mình còn đóng ở Quân Đoàn không? Bữa nọ, có chuyện, tao phải đi qua Bộ Chỉ Huy ở Non Nước làm giấy tờ. Trên đường về, khi xe lam sắp lên trên cầu Trịnh Minh Thế thì bị chặn lại. Phía trước có một cái xe Hồng Thập Tự với một đám người đứng bao chung quanh. Tò mò, tao cũng đi tới coi thử chuyện gì cho biết. Tới nơi, chen vô thì tao thấy có một cô bé nữ sinh khá xinh đẹp, quần áo ước sủng nước, đang ngồi trên cái băng ca thút thít khóc. Tao bèn hỏi người đứng bên cạnh :

- Chuyện gì vậy?

Người đó chỉ cô gái rồi nói :

- Nghe nói cô này nhảy xuống cầu tính tự tử sao đó, nhưng may sao có cái cậu kia nhảy xuống cứu kịp, chớ không thì ngủm cù tèo rồi.

Vừa nói người này vừa chỉ về hướng một cậu thanh niên, quần áo ướt mèm, mặt mủi quạu quọ hùng hổ, từ dưới bờ ruộng đang leo lên lề đường nhắm về hướng đầu cầu đi tới. Nhằm lúc đó, có một đám học trò đang đi xuống. Khi tới gần nhóm học sinh thì nó dừng lại nhìn chằm chặp từng đứa như tìm kiếm ai. Nhìn một lúc như nhận không ra ai, nó bực mình giận dử la lớn :

- đm, hồi nãy thằng nào xô tao.

Tự nãy giờ lắng nghe câu chuyện một cách say mê, bây giờ cả đám mới la lên cười rộ một cách thích thú.


Đang đấu hót chợt có đứa chỉ tay về hướng Tiểu Đoàn ở bên kia đồi :

- Ai đi về giống như ông Thường Vụ thì phải?

Chúng tôi cùng nhìn theo về hướng chỉ tay của nó. Phía bên kia đồi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, ông Thường Vụ Đại Đội đang đi về, theo sau ông có một nhóm người.


Không ai hỏi, một đứa ra vẻ rành chuyện giải thích
:

- Chắc tụi lao công đào binh (LCĐB).

- Sao mầy biết? - Một đứa khác hỏi lại.

- Hồi nảy tao nghe ông Thường Vụ nói. Ổng nói tý nữa ổng qua Tiểu Đoàn nhận mấy người lao công đào binh về làm tạp dịch hay tải đạn gì đó cho Đại Đội.

- Rồi họ có theo mình đi hành quân không?

- Chắc vậy. Nghe nói họ bắt mấy người lao công đào binh đi tải đạn.

- Khổ quá hở! - Một đứa chặc lưởi.

- Thế có cho họ mang súng không?

- Sao mà mày khờ quá vậy. Giao súng cho nó rồi lở nó bắn mày rồi trốn đi thì sao.

Cả bọn im lặng theo dõi nhóm người đang tiến dần về hướng Đại Đội. Có khoảng mươi người lẽo đẽo đi theo sau ông Thường Vụ. Khi họ đến trước văn phòng đại đội, ông Thường Vụ ra lệnh cho họ tập họp, dặn dò họ dăm ba điều gì đó rồi ông ra hiệu cho họ tan hàng đi về phía nhà ăn, nơi chúng tôi đang ngồi, để tránh nắng. Chắc cỏ lẽ họ là những người Lao Công Đào Binh vì trông họ ăn mặc đủ loại quân phục thường phục, giày dép lộn xộn.


Thấy chúng tôi đang hút thuốc, một người có dáng dấp “dân chơi tỉnh lẻ”, trông có vẻ lớn tuổi hơn chúng tôi, đến gần.


- Đàn anh cho em xin một điếu thuốc.

Mấy cặp mắt hướng về chỗ tôi, tôi cũng bắt chước họ nhìn theo hướng đó nhưng chẳng thấy ngoe nào nữa trừ tôi, tránh không được, tôi miễn cưỡng móc túi lấy gói Bastos mời vị này một điếu. Thấy vậy, mấy người khác cũng tiến tới chìa tay xin thuốc.



Nó là người đến xin thuốc cuối cùng. Lúc này, tôi mới có dịp quan sát nó một cách rõ ràng hơn. Khi nhóm người LCĐB còn đang tập họp trên sân Đại Đội, tôi nhận thấy có một thanh niên ở vào trạc tuổi của chúng tôi. Trông nó có vẻ lạc lõng và cô đơn trong nhóm người này. Nó mặc một chiếc áo nhà binh đã củ rích và có phần tơi tả. Chân nó mang đôi dép nhựt đến gần đưa tay xin thuốc. Trông nó không sạm nắng như chúng tôi hay những người LCĐB khác. Mặt mũi nó trắng trẻo như thư sinh. Tướng tá nó vó vẻ hiền hậu con nhà lành. Nhìn nó, không ai nghĩ rằng nó đã đi lính, huống hồ chi là đã đào ngũ rồi bị bắt để thành lao công như thế này.

Vừa chìa điếu thuốc đưa cho nó tôi vừa hỏi :

- Tên gì vậy mậy?

Nó đưa tay nhận điếu thuốc lá rồi trả lời.

- Dạ, em tên Sơn. Nó nhã nhặn trả lời.

Tôi không ưa lắm cái cách xưng hô “anh anh em em” bá vơ ngay từ khi còn ở ngoài đời. Tôi càng thấy chướng lỗ tai khi nghe cái lối xưng tụng như thế này ở trong quân đội. Tôi thấy “trung sĩ em em; đại úy em em; ông thầy em em ...” nghe nó không phải lịch sự nhưng mang hơi hướm hèn hạ và cầu cạnh không thích hợp với khẩu khí và tư cách của một quân nhân.


Như một số lớn khác trốn nhà đi lính nên hay dùng cách đổi giấy khai sinh, cạo tên, đổi tuổi .v.v... Tôi không nghĩ tên Sơn là tên thật cúa nó.


Mồi điếu thuốc xong, có lẽ nó cảm nhận được sự khó chịu của tôi nên nó bèn lảng sang một góc khác. Nhìn nó ngồi một mình quay lưng trông về dãy núi xa xa, tôi thấy nó thật là cô đơn cũng chẳng khác gì chúng tôi cho mấy.


Một lát sau, ông Thường Vụ trở lại kêu họ tập họp rồi dẫn những người LCĐB đến một lô-cốt kế văn phòng Đại Đội, chắc là chỉ cho họ chỗ ngủ.



Đến chiều, sau khi dùng cơm tối xong, trời hãy còn sáng nhưng chúng tôi không quen ai ở Thường Đức nên cũng chẳng tha thiết xuống dưới làng làm gì, thành ra cứ tụ họ̣p quanh quẩn ở cái nhà ăn.

Thấy bọn tôi la cà ở nhà ăn nó bèn lân la qua làm quen. Một thằng trong bọn tôi khi nhìn thấy nó đang đi dần tới bèn đứng dậy đi về phía cái hầm của nó. Một chặp sau trở lại, trên tay nó cầm theo một đôi giầy bố. Đến nơi, nó đưa cho thằng Sơn
:

- Nè, lấy cái này mang đở đi mày. Ở đây toàn là đá không à. Đi dép nhựt chịu sao nổi.

Thằng Sơn cảm động ra mặt, đưa tay ra đón lấy đôi giầy bố.


- Ê! Mà mang đôi giầy này vô thì mày không được tới gần tụi tao à.


Thằng Sơn đang loay hoay sỏ chân vô giầy nghe nói như thế bèn ngước lên nhìn về hướng của giọng nói vừa phát ra có vẻ phân vân lẫn chút thất vọng.


Đứa ngồi bên cạnh thằng Sơn bèn vỗ vai nó giải thích
:

- Nó nói giỡn đó. Chắc mày cũng biết là giầy bố nó hôi kinh khủng như thế nào.

Thằng Sơn lúc này mới vỡ lẽ cười hì hì.


Từ khi biết nó đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi thấy nó cười một cách trọn vẹn.



Trung Đội 3 là nơi có nhiều con bà xơ, độc thân vui tính nên nó hay la cà đi theo. Vì cùng tuổi tác nên chúng tôi dễ hòa hợp chơi thân với nhau. Chúng tôi cũng không so đo nên không ai trong chúng tôi phân biệt lao công đào binh hay lính tráng. Nó cũng biết thế nên lúc nào rãnh rỗi thì nó đi kiếm chúng tôi. Ngược lại, đi đâu chơi, chúng tôi cũng hay dẫn nó đi theo.

Từ đó, nó theo Đại Đội đi hành quân khắp “Một Vùng Chiến Thuật”. Mang tiếng là đi tải đạn nhưng thật ra những người LCĐB còn mang đạn ít hơn chúng tôi. Còn nó, có lẽ nhờ vào tính tình dễ mến, nên người ta chỉ giao cho nó mang một phần tiếp liệu nên cũng tương đối nhẹ nhàng lắm.



Trận Thường Đức - Ngày N - Ngày 28 tháng 7 năm 1974

Trời chưa sáng nhưng hậu cứ đã choàng dậy trong cơn mưa pháo. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, hai ngọn đồi của hậu cứ Tiểu Đoàn đã tiếp nhận hằng trăm, có thể hằng ngàn đạn pháo cũng không chừng. Trời vừa hừng sáng, khi những bóng dáng của cộng quân, lũ
lâu la cô hồn đi gieo tang tóc, xuất hiện rồi kêu réo xung phong. Tôi có dịp nhìn quanh địa thế. Quang cảnh thật là điêu tàn. Tất cả mọi vật như thay đổi. Hình như không một viên sỏi, hòn đá nào mà không bị lãnh đạn ít nhứt cũng một lần.


Cùng chung với số phận những người dân Thường Đức, nó cũng bị ném quăng vào trong trận chiến. Tự dưng, nó cũng phải hứng chịu những nghiệt ngã ngoài ước muốn của nó.



Trận Thường Đức - Ngày N+?

Chiến trường lúc này đang im lặng. Sự im lặng của bắt đầu một màn tấn công tới, hoặc cộng quân đang tơi tả nghĩ xã hơi.


Tôi đang ngồi bệt dưới giao thông hào mơ màng nghĩ tới những cô gái mà tôi có hân hạnh đựơc quen biết. Tôi tưởng tượng, tôi trong bộ quân phục tác chiến, bám đầy bụi đường, còn vương mùi thuốc súng, đưa các nàng đến quán cà-phê Thạch Thảo ở Đà Nẵng vào buổi hoàng hôn. Trong ánh đèn màu lung linh huyền hoặc với tiếng nhạc êm ái thoát ra từ giàn âm thanh Akai, bên tách cà-phê phin pha một ít rượu rum, êm ái cầm tay các nàng, tôi sẽ kể cho các nàng nghe những màn đánh nhau ngoạn mục còn hơn cả những phim chiến tranh của Mỹ, và còn trội hơn cái tiểu đội của ông Vic Morrow trong show Combat rất nhiều. Cái tiểu đội của ông Vic Morrow chẳng thấm tháp gì so với những chàng Biệt Động Quân thuộc Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 79. Chúng tôi ngon đến độ mà đạn cũng phải khớp, khi nó bay tới gần mà thấy Biệt Động Quân là nó hoảng hồn rơi xuống đất nghe lụp bụp thấy tội lắm.


Đạn cứ sủi vào đất kêu lụp bụp từng chập. Từng tiếng đạn phòng không quen thuộc từ trên cao độ ở dãy núi Pla-tô ở hướng nam phía bên kia sông bắn sang. Đạn trúng đất kêu lụp bụp lụp bụp. Tôi giựt mình nhìn quanh cầu nhầu
:

- m, đạn ở đâu mà dư đến độ dùng cả đạn phòng không mà bắn sẻ như thế!

Tiếng súng mỗi lúc mỗi chát chúa dần dần tiến về vị trí của tôi. Tôi đang kiếm cách thu mình cho nhỏ hơn cầu trời cho tai qua nạn khỏi thì nghe tiếng chân lụp xụp chạy tới. Tôi vội liếc ngang qua coi thử đứa nào thì thấy thằng Sơn thở hổn hển lom khom chạy đến. Đến chỗ tôi ngồi nó ngồi thụp xuống. Tôi tính cằn nhằn nó ở đâu thì ở chỗ đó chứ chạy đi chạy lại làm gì để cho nó bắn thì nó đã vội nói
:

- Còn thuốc cho tao xin một điếu?

Nhìn nó hôm nay không ai nghĩ nó là LCĐB mà rõ ràng là lính Biệt Động Quân thứ thiệt. Trên đầu nó mang một cái nón sắt, chắc lượm được của ai đó. Cũng giầy, cũng bộ đồ trận, trông nó cũng ngầu lắm. Thay vì mang súng M-16 như chúng tôi thì nó lại cầm một cây AK với mấy cái băng đạn AK đeo tòng teng trước bụng.


Thấy tôi nhăn mặt nhìn khẩu AK của nó, nó nhăn răng cười phân trần
:

- Không biết cái nước thịt của tụi nó chui vô kẽ nào mà chùi hoài cả ngày hôm qua tới giờ mà nó vẫn còn thúi.

Tôi hỏi nó
:

- Sao không lựa cái nào sạch sẽ mà xài, chớ lấy cái này làm gì?

- Cái này là sạch lắm đó mày. Cả một đống súng lượm vô, cây nào cây nấy cũng dính đầy nước thịt xám xì, thấy mà muốn mửa.

Tôi nhớ lại, hôm trước, vì đạn đã cạn dần mà không có tiếp tế; để có thể duy trì khả năng chiến đấu, tiểu đội Trinh Sát của đại đội 1 do Trung Sĩ Khâm chỉ huy đợi đêm tối mò ra ngoài hàng rào phòng thủ. Họ dọ dẫm mò tới những nơi mà xác cộng quân bị bỏ lại để thu lượm súng ống của địch hầu có thêm vũ khí chống cự với địch quân. Dưới cái nóng cháy người của mùa hè, ban ngày cũng như ban đêm, những xác chết của cộng quân bị sình chướng và rục nát tiết ra những giòng nước nhờn nhờn xền xệt mang một màu xám xịt. Chúng tôi không biết nên gọi cái loại nước này là nước gì nên cứ gọi đại nó là nước thịt. Chất nước xám từ trong xác chết của cộng quân chảy ra bám vào những súng ống đạn dược nằm bên cạnh tử thi.


Đêm đó, sau khi nghe tin tiểu đội Trinh Sát của Khâm trở về, tôi có mon men lên xem coi thử có cái nào còn xài được thì đem về xử dụng. Chưa tới nơi, mùi xú uế từ trong đống vũ khí toát ra làm tôi muốn nôn mửa. Tôi đã ngửi cái mùi này từ mấy ngày qua nhưng chưa bao giờ có cái bất hạnh gần gủi như hôm nay. Có thể nói, trên đời này, không có một mủi hôi mùi thúi nào mà có thể qua mặt được mùi hôi này. Nó không những thúi mà nó còn làm cho người ngửi phải rùng mình và nghẹt thở nữa.


Tôi mở bao thuốc lá đưa cho nó một điếu. Cầm điếu thuốc trong tay rồi mà nó vẫn còn chần chừ chưa chịu đi. Thấy nó liều mạng chạy xuống đây xin thuốc, còn tôi thì lúc nào cũng thủ sẵn một cây thuốc lá trong ba-lô, vả lại, còn biết sống chết bao lâu nữa nên tôi đưa hết bao Bastos còn lại cho nó. Nó bèn cầm lấy lom khom chạy ngược trở về phòng tuyến của trung đội 3. Vừa thấy nó di chuyển trong giao thông hào, bên kia, đạn đại liên phòng không lại ồn ào bắn sẻ sang.



Trận Thường Đức - Ngày N+10 – Ngày 7 tháng 8 năm 1974

Trời vừa hừng sáng, từng đợt pháo kích đã mở màn cho một ngày mới. Cường độ pháo kích hôm nay có phần dữ dội hơn những ngày trước, báo hiệu cho thấy có sự thay đổi chiến thuật.


Sau pháo kích, cộng quân bắt đầu dùng pháo bắn trực tiếp vào những lô-cốt hoặc giao thông hào nơi Đại Đội 1 phòng thủ. Những căn hầm nào còn chống chỏi được cho tới hôm nay cũng đã bắt đầu rung chuyển. Từng đoạn giao thông hào dần dần bị san bằng. Nơi Trung Đội 3 phòng thủ là nơi chiến đấu quyết liệt nhứt nên trở thành là mục tiêu chính cho những khẩu đại bác từ bên kia sông bắn sang.


Bị pháo kích, tuy có hãi hùng nhưng cũng còn đở hơn là bởi vì đạn rớt khắp nơi nhưng không lọt một chổ nhất định. Chỉ khi nào xui gặp phải trái đạn rớt kế bên mình, thì lúc ấy thân xác mới bị rúng động vật vã. Tuy quằn quại nhưng cơ thể còn có cơ hội phục hồi vì viên đạn kế tiếp có thể rớt ở nơi khác nên thân thể có đủ thời giờ trở lại bình thường. Còn bây giờ, đạn nó cứ nhắm chổ mình bay tới vùn vụt, hết viên này tới viên kia. Chỉ những tiếng nổ và sức ép của nó không thôi, cũng đủ làm cho toàn thân co rúm tê liệt kéo dài cho đến khi dứt pháo. Không ngôn ngữ nào có thể diễn tả được nỗi kinh hoàng khi bị đặt vào trong hoàn cảnh bất hạnh này.


Mỗi một tiếng đạn nổ là mỗi lần lồng ngực như muốn vỡ tung ra. Sức ép công phá của trái đạn đè bẹp xuống lồng phổi khiến không làm sao thở nổi. Tới khi thở được thì bụi cát ùa nhau bay vào trám đầy trong cuống họng. Tai ù, máu mũi chảy, mắt mở không ra. Nếu có cố gắng hé ra được thì cũng chẳng thấy gì vì bụi đá quay cuồn trên không che khuất hẳn mọi hình mọi vật.


Từng quả rồi từng quả, những trái pháo liên tục nổ trên đầu tuyến phòng thủ của Trung đội 3.





Đồi Thường Đức - Tuyến phòng thủ còn lại của Đại Đội 1 vào những ngày cuối của cuộc chiến.


Khi màn pháo phủ đầu vừa dứt. Khi đám bụi mù cũng vừa tan thì cộng quân bắt đầu tấn công. Bóng họ lố nhố dò dẫm sang từ phía bên phòng thủ của Trung Đội 1 đã bỏ trống từ cả tuần nay. Từ triền đồi bên hướng tây, một cánh quân khác cũng bắt đầu tiến sang.


Đợi khi cộng quân vào hẳn trong tầm tác xạ, bên này phe ta bắt đầu khai hỏa. Mặc dầu lúc này cộng quân có phần lợi thế hơn những lần trước nhờ vào một số chướng ngại vật của ta như một số hầm hố mà mình đã bỏ trống vì không còn khả năng trải rộng phòng tuyến. Tuy nhiên, như những lần trước, họ đã phải chùn bước trước sự phản công mãnh liệt của Trung đội 3. Nói rằng Trung đội 3 bởi đó là tuyến phòng thủ của Trung đội 3 chứ thật ra chỉ còn có năm ba tay súng của tiểu đội trinh sát của Tr/S Khâm.


Có lẽ bên kia địch quân cay cú vì cứ bị bên ta đẩy lui. Từ trên đỉnh núi bên kia sông, họ nhận thấy chiến thuật phá hầm bằng cách cho bắn trực xạ có hiệu quả. Từ trên cao độ, cộng quân cho pháo bắn thẳng xối xả vào những hầm hố nào còn nhô ra trên mặt đất. Gồng mình hứng trận đòn thù. Lần này chúng tôi có cảm giác họ muốn chôn sống những ai còn lại. Họ muốn dùng hầm hố và giao thông hào làm mồ chôn chúng tôi.


Dù có thành đồng cốt sắt cũng không làm sao có thể đứng vững trước sự tàn phá khủng khiếp này. Lần lượt, từng cái hầm bị sụp đổ. Từng đoạn giao thông hào bị san bằng. Một trái pháo nổ ngay trên bờ hầm của Trung Úy Tẩm, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, máu từ đầu ông chảy xuống che khuất một bên mắt.


Trên sân đồi, từng cột đất được móc lên quăng tung tóe trong không gian. Trong bụi mờ, thằng Dũng, thằng Đức rồi Tr/S Khâm khập khểnh theo giao thông hào đi xuống. Nhìn họ xuống tôi biết chắc cái ngày sẽ đến rồi phải đến.


Khi thấy rõ tiểu đội Khâm đã rút về sau, cộng quân bèn ngưng pháo cho bộ binh tiến chiếm. Bóng cộng quân bắt đầu lố nhố từ bên vị trí của trung đội 2 dò dẫm tiến sang. Chủng tôi, chỉ còn lại vài thước phòng tuyến bên này chia nhau đâu lưng bố trí.


Tiếng thằng Tư trong máy báo cáo về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn tình trạng của Tr/U Tẫm và yêu cầu rút về bên đồi của Tiểu Đoàn cố thủ.


Năm ba tên cộng quân nhảy lên thụp xuống mò tới. Khi cộng quân chỉ còn vài thước cách cái hầm của Trung đội 3 vừa mới xập. Đột nhiên, từ bên trong hầm, một loạt đạn đại liên M60 bắn ra. Vì không ngờ còn có người trong hầm, cho nên một số bị trúng đạn kêu la chí chóe, một số khác vội lùi lại phía sau.


Đạn đại liên vẫn cứ nổ dòn; 3 viên - 2 viên; từng hồi một.


đùng đùng đùng - đùng đùng ... đùng đùng đùng - đùng đùng ...


Chúng tôi cùng nhìn nhau phân vân không biết đứa nào còn kẹt lại ở trong đó.


Bổng có tiếng la
:

- Chắc thằng Sơn lao công đào binh?

Trung Sĩ Khâm tính dợm người lên, đi trở lại để phụ thằng Sơn. Chưa kịp dượm bước thì tiếng đạn đại liên cũng vừa dứt. Cùng lúc ấy, bóng thằng Sơn, từ trong cái miệng hầm lao về phía chúng tôi.


Tới nơi, nó thở hổn hển thều thào :

- Hết đạn rồi. Hết đạn rồi.[1]

Chợt thấy Trung Úy Tẩm ngồi dựa lưng gần đó, nó nói
:

- Tụi nó tới rồi, Trung Úy.

Có tiếng bên Tiểu Đoàn gọi qua. Thằng Tư cầm máy lên nghe. Nó dạ dạ một vài lần rồi cúp máy. Quay sang Tr/U Tẩm nó nói
:

- Đại bàng kêu zulu.

Từng người một rời khỏi phòng tuyến băng vội qua bên kia vòng đai của Tiểu Đoàn.  Ai qua trước xong thì yểm trợ cho lớp qua sau. Sau khi tất cả đã qua hết bên này an toàn. Nhìn lại, tôi thấy ba bốn tên cộng quân đang mon men tới gần nơi chúng tôi vừa cố thủ trước đó không bao lâu.

Đại Đội 1 bị thất thủ kéo theo Đại Đội 3, rồi Tiểu Đoàn, tiếp theo Chi Khu Thường Đức. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà tình thế đổi ngược trở nên hoàn toàn vô vọng. Những tiếng la kêu đầu hàng nhưng hình như từ ngữ đó không nằm trong ngôn ngữ của chúng tôi.

Chúng tôi phối hợp với một số bên Đại Đội 3 di chuyển xuống làng. Chưa bao giờ tôi cảm thấy ê chề khi bắt gặp những ánh mắt xót xa của những người dân trông theo từ hai bên đường. Có một số như đã chuẩn bị sẳn, khi họ thấy chúng tôi đi qua họ bèn gồng gánh dắt díu nhau theo sau chúng tôi.

Đến cuối bờ sông bên này con sông Côn thì cả lính với dân không thể di chuyển được nữa. Chúng tôi bây giờ được tăng thêm với một số lính Nghĩa Quân, Địa Phương Quân, Cảnh Sát, Cảnh Sát Dã Chiến, Nhảy Toán .v.v...


Có người nào đó kêu gọi những ai không bị thương nặng tập họp lại. Tôi và một nhóm lính tráng đủ loại đi qua hướng vừa kêu. Đến nơi, chúng tôi cùng đồng ý mở đường máu, theo đường làng, song song với tỉnh lộ số 4 về Đại Lộc.


Hai chiếc ghe chở hai nhóm chúng tôi qua sông trước làm đầu cầu cho dân chúng và những người bị thương qua sau. Nhờ vào sự kháng cự khá yếu ớt, chúng tôi qua sông với chỉ hai ba người bị xây xát
.

Qua được rồi, chúng tôi ra dấu cho mọi người qua theo. Lợi dụng sự thối lui của cộng quân, chúng tôi quyết định chọn lối đánh thần tốc bẳng cách vừa đánh vừa chạy với hy vọng thu ngắn được quảng đường trước khi trởi tối, cũng như trước khi địch quân có cơ hội tái phối trí.

Một điều chúng tôi không ngờ tới, với cách đánh này, con số thương vong bị loại khỏi vòng chiến rất cao. Khi chúng tôi xông qua được một thôn, đến thôn kế tiếp phải vượt qua một cánh đồng. Khi vừa sắp tới đầu thôn thì bên kia cộng quân đã dàn sẳn bắn ra sối xả. Không cách nào tiến thêm được, chúng tôi đành rẽ trái ra lộ, băng ruộng nhắm vào bìa núi.


Trên cánh đồng, dân có lính có, dắt díu nhau chạy tuôn vô núi. Trên con lộ, cộng quân không buồn dấu diếm, đi thản nhiên xả đạn vào trong đám đông.



Sau khi vào hẳn bên trong cho đến khi những tiếng súng bắn đuổi theo nhỏ dần thì tôi bắt đầu chậm lại. Đến một chỗ khá an toàn tôi bèn nhìn quanh xem thử mình ở nơi đâu. Trong khi tôi đang loay hoay định hướng hình dung vị trí của mình trên cái bản đồ tôi nhớ mang máng trong đầu thì tôi gặp thằng Kiệt, thuộc nhóm Nhảy Toán, và thêm một vài người lính khác nữa cũng vừa trờ tới.

Trên đường vào núi, chúng tôi có băng qua một lớp dây cáp điện thoại. Thằng Kiệt và tôi cùng đồng ý là đám việt cộng có thể sẽ đóng quân dọc theo bìa núi. Để cho an toàn, tôi đề nghị nên di chuyển theo sườn núi cách khoảng 1 ký-lô mét song song với bìa rừng. Nếu xuông xẻ, tôi nhẩm tính trong đầu là khoảng 3 ngày thì chúng tôi sẽ đến được Hà Nha.


Để tránh bị phát giác, chúng tôi cứ dọ dẫm đi theo triền núi nên rất chậm chạp. Mãi đến chiều, xa xa tiếng nước suối chảy nghe róc rách. Càng tới gần hơn thì chúng tôi nghe có tiếng người nói chuyện líu lo. Đến gần nhìn xuống con suối tôi thấy toát mồ hôi hột. Dưới suối, một đám con trai con gái súng ống đầy mình đang giặt giũ tắm rửa ồn ào.


Đi thêm nữa thì không được. Mà lùi lại thì cũng không xong. Chì cần một tiếng động mạnh thì cả đám sẽ bị tiêu tùng. Chúng tôi bèn tìm chổ ẩn nấp chờ trời tối để vượt qua con suối.


Tôi và thằng Kiệt kêu khổ im lặng ngồi dấu mình trong bụi cây. Trời nóng hừng hực, quần áo nhớp nhúa dơ bẩn làm người ngợm ngứa ngáy khó chịu. Những con muỗi con nhặng cứ đua nhau vung vít bay qua bay lại không cho chúng tôi được yên thân. Chốc chốc, một con gió nhẹ thổi qua làm cho những lá cây xao động tạo thành những âm thanh rù rì trong cái tỉnh mịch của núi rừng.


Đột nhiên trong tiếng xào xạt của lá cây, có những âm thanh là lạ xen vào. Tôi cố lắng nghe để tâm phân tích đoán thử cái gì có thể tạo ra những âm thanh mới lạ thì tim tôi chợt thắt lại khi nhận ra đó là tiếng động của những bước chân đang từ từ tiến gần về hướng nơi chúng tôi đang trú ẩn.


Thằng Kiệt cũng đang nhận ra điều đó nên nó khẽ huých nhẹ vào tôi rồi đưa mắt ra dấu về hướng của những tiếng chân đang tiến dần tới. Tôi nhủ thầm, không lẻ bọn chúng đã khám phá ra chúng tôi? Hay là bọn họ đang tuần tiễu? Thời gian như ngừng hẳn lại. Mồ hôi trán tôi rịn ra. Hồi hộp, tôi chậm chạp đưa ngón tay trỏ vào trong lòng cò súng của khẩu Colt.45, một khẩu súng duy nhất tôi còn mang theo với vỏn vẹn 1 băng đạn.


Tiếng động của những bước chân tiến lại gần hơn. Chúng tôi chong mắt nhìn qua bụi cây xem thử ai đó đến gần. Cứ mỗi một tiếng bước chân nghe càng rõ hơn thì nhịp đập của tim tôi lại càng thêm dồn dập. Khi bóng dáng họ hiện dần sau những lùm cây, tôi thấy tất cả đều mặc quân phục. Tôi nhận ra có một vài đứa thuộc Đại Đội 3 và có cả thằng Sơn trong nhóm.


Đến đây thì tôi mới thở dài nhẹ nhõm. Vừa mừng mà cũng vừa lo. Mừng vì tưởng gặp cái họa nhưng không phải. Lo vì ngại đám việt cộng ở dưới suối nhận ra bởi vì mấy vị này đi đứng có vẻ hiên ngang lắm. Chờ cho bọn họ đến khá gần tôi mới lộ mặt đưa tay ra dấu bảo tất cả im lặng.


Thằng Sơn kịp nhận ra tôi nên nó có vẻ mừng rỡ rón rén chui vào bụi ngồi cạnh tôi. Mấy đứa còn lại cũng bắt chước nó làm theo.


Dưới khe suối, đám việt cộng vẫn tiếp tục tắm rửa và giặt giũ. Họ to tiếng và nói chuyện rất ồn ào. Tồi nhận thấy giọng nói Miền Bắc của họ có vẻ lanh lảnh và the thé, chứ không có ấm áp và đài các như những người có giọng Bắc mà tôi biết. Tôi nghĩ chắc mấy người này là người Thượng vì giọng nói của họ không giống như giọng nói của những người ở thành phố. Giọng miền Bắc của họ nghe không được êm ái và văn minh. Một giọng nói mang những âm hưởng của người miền núi với những âm thanh chát chúa. Trong tình trạng thập tử nhứt sinh như lúc này, những âm vang của họ còn nghe như những tru tréo vọng về từ cõi âm.


Ngồi chờ hoài cũng sốt ruột nên một thằng trong nhóm bèn có ý kiến
:

- Tao có cách để tụi mình qua suối được.

- Bằng cách nào? – Một thằng khác thầm thì hỏi lại.

- Lấy một nắm gạo xấy liệng vô trong núi.

Vài cái vai rung rinh với những tiếng cười khúc khích. Có một thằng ngây thơ thắc mắc
:

- Liệng gạo sấy vô núi thì làm sao mình qua được?

Thằng bên cạnh vẫn còn cười giải thích
:

- Mục đích tụi nó từ Bắc vô Nam là để kiếm cơm. Liệng mấy hột gạo qua bên đó thì tụi nó sẽ giành nhau lượm. Lúc đó thì mình cứ đi qua chớ tụi nó có còn thấy gì khác đâu.

Gìờ vở lẽ ra nó mới che miệng cười.



Sau một vài lần chạm trán với địch quân trong vài ngày sau đó. Cuối cùng chúng tôi cũng thoát được về tới Hà Nha.


Sau khi biết chắc Hà Nha là vùng kiểm soát của phe ta. Chúng tôi bèn lần mò trở ra con lộ.

Đến nơi, ngay bìa làng, cạnh con lộ, một văn phòng của Liên Đoàn 14 BĐQ, với vài người lính của BCH Liên Đoàn, được thiết lập trong một quán cóc. Kế đó, một chiếc xe Jeep và một xe Hồng Thập Tự.


Thấy chúng tôi xuất hiện, họ mừng rở dìu chúng tôi ngồi vào ghế rồi mang ra những ly sữa nóng cùng một tô mì gói. Hỏi ra thì được biết họ ở đây để đón những ai thoát về từ Thường Đức. Bụng bị đói meo từ hơn mấy ngày qua, nay uống được ly sữa nóng cộng với tô mì gói rồi làm thêm một điếu Ruby, đến đây, tôi mới cảm được mình thực sự đã rời xa cỏi chết.


No ấm rồi, tinh thần tôi từ từ dịu xuống.  Đảo mắt nhìn quanh, tôi chợt thấy nơi đây thật thanh bình.  Ngoài những mẫu đối thoại trong quán, không một tiếng đạn đại bác, không một tiếng máy bay oanh kích, không một tiếng la hét chém giết.  Vài tiếng súng nổ vang bắn ra từ đồi 52 gần đó.  Khoãng hơn cây số về hướng Tây, Tây Bắc là rặng núi Đông Lâm chạy dài về hướng đông, nơi đây, cộng quân đang án binh chận đánh quân tiếp viện lên giải vây Chi Khu Thường Đức.  Lúc này thì tôi mới ngợ rằng, thì ra đây là những tiếng súng vọng lên từ Hà Nha vào những ngày đầu cuộc chiến.  Thế mà chúng tôi cứ hăm hở kháo nhau rằng đó là tiếng súng của quân tiếp viện đang đánh lên để tiếp viện chúng tôi.

Sau khi ăn xong, thấy quần áo của thằng Kiệt, tôi và một vài đứa khác máu me tùm lum nên họ đưa chúng tôi lên chiếc xe Hồng Thập Tự. Còn thằng Sơn và một vài đứa lành lặn khác thì ở lại với họ để về BCH Liên Đoàn nhập chung với Đại Đội 2 và Trung Đội 2 của Đại Đội 1. Hai đơn vị nầy được giữ lại đây để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn khi Tiểu Đoàn bị điều động từ Quảng Tín về để bảo vệ quận lỵ Thường Đức.

Trên đường đi về Tổng Y Viện Duy Tân ở Đà Nẵng, tôi thấy sinh hoạt hai bên đường có phần hối hả nhưng không có vẻ khẩn trương lắm.


Xe chạy ngang qua nơi BCH Liên Đoàn 14
, hiện giờ không còn một Tiểu đoàn nào dưới trướng, đang đóng trên Núi Đất ven con lộ. Từng dảy ăng-ten tua tủa chỉa lên trời. Xe lên người xuống tấp nập.

Đến khi tới gần Đại Lộc, tôi thấy người người đi đứng buôn bán rất là bình thường. Hình như họ không biết cộng quân chỉ cách nơi đây chừng mươi cây số, hay họ đã quá quen với không khí chiến tranh.


Trên đoạn đường từ Hà Nha về tới Đại Lộc, tôi chẳng thấy một sự kiện nào để chứng tỏ rằng đã có những toan tính tiếp viện hay giải vây Chi Khu Thường Đức. Tôi cũng không thấy lính Sư Đoàn 3 mang ba-lô súng đạn đi ra chiến trường. Có thể tôi nhầm, nhưng tôi cũng không thấy một đơn vị bạn nào di chuyển trên con tỉnh lộ số 4 về hướng Thường Đức từ Đại Lộc hay ngược lại. [2]


Có dịp tập họp Tiểu Đoàn lần tới, tôi sẽ đề nghị Tiểu Đoàn nên tự phong tự gắn cho mình một giây biểu chương cao quý nhất trong quân đội lên trên hiệu kỳ của Tiểu Đoàn.  Bởi vì hiếm khi có một đơn vị cấp Tiểu Đoàn, hơn một nửa Tiểu Đoàn thì đúng hơn, với một số vủ khí đạn dược hạn chế, mà được Quân Khu chỉ định cử ra chọi với hơn cả một sư đoàn của đối phương, với vủ khí hùng hậu dồi dào, mà lại chiến đấu đơn độc cho tới viên đạn cuối cùng, cho đến khi không còn đất dụng vỏ.  Riêng tôi, tôi sẽ lấy mấy chục cái Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liểu, gắn đầy trên cả ngực áo cho tôi, cho mấy thằng đã chết, mấy thằng bị thương bị bỏ lại và những thằng còn vất vưỡng đâu đó ở trong rừng.


Sau khi được băng bó xong tôi bèn dọt qua Non Nước, Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Đoàn 1 Quân Khu 1, để gặp Thiếu Úy Lục và Trung Sĩ Việt bây giờ đang tạm thời làm việc như một BCH Tiểu Đoàn dã chiến. Th/U Lục trước đây là Đại Đội Phó Đại Đội 1 nhưng bây giờ là Sĩ Quan Phát Ngân của Tiểu Đoàn. Còn thằng Việt là bạn thân với tôi. Trước đây nó là Thư Ký Đại Đội và bây giờ theo Th/U Lục đi phát lương.

Gặp nhau, thằng Việt
mừng hoen nước mắt. Hàn huyên một chập, tôi bèn kể về câu chuyện của thằng Sơn. Tôi đề nghị với thằng Việt nên làm đơn kể về công lao của nó rồi xin nó được ân xá phục hồi binh nghiệp cho nó. Nếu được, xin nó chuyển thành quân nhân thực thụ của TĐ79/BĐQ. Thằng Việt nghĩ nó đang ở ngay tại BCH Quân Khu nên nó có thể dàn xếp được.

Vài tuần sau, khi những vết thương đã lành hẳn thì tôi được bệnh viện cấp cho giấy phép nghỉ 29 ngày tái khám.  Cầm giấy phép trong tay, tôi bèn dọt về quê thăm nhà.  Nghỉ chưa hết 2 tuần nhưng tôi đã bắt đầu chán ngán nếp sống sinh hoạt của thành phố, và tự dưng tôi củng dần dà bớt thiện cảm với những người bạn ngoài đời.  Tôi cảm thấy lẻ loi khi đi chơi chung với họ.  Tôi bèn về trình diện Tiểu Đoàn, lúc này đang bổ túc tại Dục Mỹ.  Đến nơi, trừ Đại Đội 2, còn bao nhiêu đều là lính mới.

Không ai biết thằng Sơn lưu lạc nơi đâu. Có tin, BCH Liên Đoàn trả nó lại cho An Ninh Quân Đội. Có tin, nó được phục hồi thành lính Biệt Động và bổ sung về Tiểu Đoàn 78 Biệt Động Quân.



Từ đó, tôi không còn gặp thằng Sơn nữa.
Hôm nay, viết lại những nghĩa cử anh hùng xưa. Có người còn sống và cũng lắm người đã chết. Tuy nhiên đây là bổn phận của người lính. Họ tình nguyện chiến đấu và chấp nhận sự hy sinh. Còn thằng Sơn, nó là Lao Công Đào Binh, không ai bắt nó phải quýnh nhau nhưng nó vẫn nhập cuộc một cách hoan hỉ. Vì vậy, bài viết đầu tiên tôi dành sự trang trọng này cho nó.

Viết cho mày đó Sơn.




Ghi Chú:

[1].     Để thấy sự lợi hi của hành động thằng Sơn ngày hôm đó, mời bạn đọc xem một đoạn trên báo QĐND ngày 9 tháng 5 năm 2010, của một nhân vật tự xưng là Đại tá Phạm Quang Định (không rõ Đại tá sau này hay Đại tá lúc đó ), thuật lại cuộc tấn công vào Đại Đội 1 trên báo như sau   Mặc dầu lời lẽ mang nặng tính chất khoa trương cố hữu và giàu tưởng tượng ở mức trào phúng của người cộng sn nhưng vẫn không dấu được một sự thật.  Cũng cần nhấn mạnh rằng: Trong 10 ngày giao tranh, có thể nói không ngoa, đồi Thường Đức, là tử địa của cả hai bên.  Biết bao nhiêu lần hai bên giao tranh ác liệt và đẫm máu cả ngày lẫn đêm, thế mà khi nhớ lại chuyện xưa, nhân vật này chỉ tuyệt nhiên nói lên sự kiện người xạ thủ đại liên hôm đó.  Điều này cho thấy thằng Sơn, ngay trong giây phút tuyệt vọng nhứt, cũng đã gây cho địch quân một thiệt hi nhớ đời.  Một nhận xét bên lề tương đối khích lệ:  Sau mấy chục năm tiếp nhận văn minh của người Miền Nam, qua cách nói, bản chất của người cộng sn vẫn không thay đổi nhưng ngôn ngữ có phần bớt lỗ mãng, sắt máu và lếu lo, nên lời lẽ đọc lên nghe cũng bớt chói tai hơn trước.

" ... 1 giờ sáng ngày 7-8 cán bộ chỉ huy sư đoàn hội ý thống nhất nhận định tình hình và đi đến quyết định: Chuyển hướng tiến công của Tiểu đoàn 9 thành hướng chủ yếu. Trung đoàn 66 mở đợt tiến công cuối cùng đánh chiếm quận lỵ Thượng Đức. Hoả lực của sư đoàn bắn chi viện cho Tiểu đoàn 8 tiếp tục mở cửa. Quả bộc phá nổ cuốn theo lớp hàng rào cuối cùng. Trung đội trưởng Chu Ngọc Oanh dẫn trung đội lao lên. Bọn địch hốt hoảng chui vào lô cốt ngầm bắn ra như điên dại. Từ một lô cốt ở địa thế cao bất thần xuất hiện một khẩu đại liên nhằm đúng hướng của ta nhả đạn, bộ đội không vượt lên được. Trung đội trưởng Chu Ngọc Oanh quyết định dùng bao cát bịt lỗ châu mai của địch để cả Đại đội 6 xông lên đánh chọc thẳng vào trung tâm. ... "




[2].     Trong bài “Trở lại chuyện ông Thiệu của ông Lử Giang được đăng tải trên một ít trang báo của cộng đồng người Việt.  Bài viết thiên về chê bai Tông tông Nguyễn văn Thiệu. Tuy nhiên, trong mục "KHÔNG BIẾT ĐỊCH LÀM GÌ", bài viết nêu lên 3 điểm chiến lược quan trong và chỉ trích ông Tông tông đã không nhận ra ý đồ của địch quân mà để cho mất nước.  Thường Đức là một trong 3 điểm chiến lược quan trọng đó.  Nhận thấy những sự kiện liên quan đến Thường Đức có phần đáng tin cậy, cho nên tôi đưa ra đây đề rộng đường dư luận với tất cà những dè dặt.  Ấy là, QĐ1/QK1 biết rõ từ tháng 4 rằng cộng quân đang phát triển đường tiếp liệu và huy động một lực lượng hùng hậu để chiếm lấy Thường Đức, thế mà đến cuối tháng 7, QĐ1/QK1 chỉ đưa mỗi Tiễu Đoàn 79 Biệt Động Quân về đối đầu.


1.-   Dứt điểm Thường Đức.
Tôi nhớ vào khoảng tháng 4 năm 1974, tôi đang ngồi uống cà phê ở đường Tự Do, Sài Gòn, một người bạn đền hỏi tôi có muốn đi Đà Nẵng không, có chuyện quan trọng lắm. Tôi đồng ý. Chỉ ba tiếng đồng hồ sau chúng tôi đã có mặt tại Đà Nẵng, từ đó chúng tôi được đưa bằng trực thăng lên Thướng Đức. Thuyết trình về tình hình Thường Đức, thuyết trình viên cho biết bây giờ Cộng quân đã đặt ống dẫn dầu đến A Sao, A Lưới, ở bên kia đèo Hải Vân. Họ sắp chọc thủng Thường Đức để đưa dầu xuống mật khu Hiệp Đức ở Quảng Nam và Quảng Ngãi. Sau đó, chúng tôi được trực thăng chở đi xem các đường mới Cộng quân đang làm chằng chịt để tiến quân vào Thường Đức. Chúng tôi hỏi Quân Đoàn tính sao. Thuyết trình viên cho biết đang đợi quyết định của Tướng Ngô Quang Trưởng. Muốn giữ Thường Đức phải có ít nhất một liên đoàn Biệt Động Quân. Nhưng sau đó tôi nghe nói Tưởng Trưởng chỉ cho Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân thủ ở đó.
Vì nhu cầu chiến lược, Hà Nội đã huy đợng 3 Sư Đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng Hoàng Đan để chiếm Thường Đức. Lúc 8 giờ 30 sáng 7.8.1974, Thượng Đức hoàn toàn bị thất thủ. Tướng Trưởng ra lệnh cho Sư Đoàn Dù chiếm lại, nhưng mặc dầu đã có gắng và tổn thất nặng, Sư Đoàn Dù chỉ chiếm lại được một số đồi xung quanh.



Cá nhân tôi vẫn  thắc mắc không biết sự thật Tướng Trưởng hay đâu đó có ra lệnh cho lính Dù chiếm lại Thường Đức hay không?  Bởi vì nếu muốn chiếm lại Thường Đức, với khả năng của 2 Lữ Đoàn Dù, Thường Đức đã được lấy li chỉ nội trong vòng 1 tuần lễ, và cái mục tiêu như đồi 1062 hay những cái đồi gần đó sẽ tự dưng biến mất và không còn cần thiết.  Đằng này, một thời gian sau khi Thường Đức đã bị mất, 2 Lữ Đoàn Dù mới được đưa tới, đóng quân tại Quận Đại Lộc, rồi giao tranh lẩn quẩn ở mấy cái đồi 700, 1062 , 1235 v.v... thuộc quận Hiếu Đức, từ tháng này cho tới tháng nọ, mà chẳng có lấy một người lnh Dù nào đặt chân lên trên địa hạt của quận Thường Đức, dù chỉ là một tấc đất.  Điều này, nói lên sự hiện diện của 2 Lữ Đoàn Dù chỉ có ý đồ cầm chân địch quân.  Để làm gì?  Để cho Đà Nẵng được bình an ngày nào hay ngày đó???  Hay để cho những toan tính nào khác???  Chứ tuyệt nhiên không nhằm mục đích giải tỏa Thường Đức hoặc đánh đuổi địch quân.